Bạch Đằng giang phú là bài phú tiêu biểu nhất trong nền văn học trung đại Việt Nam, bài phú như gợi nhắc về những trang sử hào hùng nhưng cũng không kém phần đau thương của đất nước. Hãy tham khảo bài viết dưới đây về Phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch đằng.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch đằng:
1.1. Mở Bài:
Giới thiệu về tác giả Trương Hán Siêu và tác phẩm Bạch Đằng giang phú.
Dẫn dắt người đọc vào yêu cầu của đề bài là phân tích khổ 1 bài “Bạch Đằng giang phú”: đây là bài phú xuất sắc nhất trong thể phú của văn học trung đại Việt Nam, đặc biệt trong đoạn một của bài phú, tác giả không chỉ ngợi ca truyền thống chống giặc ngoại xâm anh hùng bất khuất kiên cường của dân tộc Đại Việt mà còn là lòng tự hào về cảnh sắc hùng vĩ tươi đẹp của quê hương đất nước.
1.2. Thân Bài:
Giới thiệu về nhân vật “khách” trong bài phú:
– Thực chất là sự phân thân của chính tác giả Trương Hán Siêu.
– Là kẻ thích đi ngao du và khám phá về lịch sử dân tộc trên khắp bốn phương đất nước
Hành trình du ngoạn, khám phá của nhân vật “khách”:
– Mục đích đến sông Bạch Đằng là đi du ngoạn.
– Liệt kê các địa danh trong bài phú.
Cảnh vật thiên nhiên hùng vĩ, bi tráng trên sông Bạch Đằng lịch sử:
– Đó là vẻ đẹp kì vĩ, tráng lệ, thơ mộng.
– Và cũng mang vẻ đẹp hoang vắng có chút đìu hiu, buồn lặng.
Trạng thái và tình cảm của kẻ “khách” trước cảnh trí thiên nhiên nơi sông Bạch Đằng:
– Thấy tự hào vô cùng cảnh sắc quê hương đất nước và sự anh dũng và hùng mạnh của dân tộc trước quân xâm lược, quân cướp nước
– Buồn thương tiếc nuối vì dân tộc đã phải gồng mình lên chiến đấu, đổ biết bao xương máu tại nơi đây
1.3. Kết Bài:
Khẳng định lại Ý nghĩa đoạn 1 bài “Bạch Đằng giang phú: tác giả đưa người đọc trải qua nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, từ niềm tự đến nỗi buồn thương tiếc nuối.
Nếu cảm nhận cá nhân về nội dung và phòng cách nghệ thuật của nhà thơ sử dụng trong bài.
2. Phân tích đoạn một trong bài Phú sông Bạch đằng hay nhất:
Giáo sư Nguyễn Đình Chú từng nhận xét rằng “Giá trị của phú là ở chỗ không chỉ làm sống dậy hào khí chiến đấu của trận Bạch Đằng mà còn làm sáng chân lý muôn đời của dân tộc”. Và “Bạch Đằng giang phú” là một bài phú xuất sắc nhất như thế, đằng sau khí thế chiến thắng anh hùng của trận chiến ác liệt trên sông Đằng bài phú là niềm tự hào dân tộc cùng tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời. Đặc biệt trong đoạn một của bài phú này, tác giả Trương Hán Siêu đã ngợi ca dáng vẻ cao đẹp của con sông Bạch Đằng đầy dấu tich lịch sử của dân tộc.
Vẻ đẹp cảnh trí thiên nhiên của con sông Bạch Đằng được tác giả Trương Hán Siêu khắc họa qua cái nhìn và sự cảm nhận của nhân vật “khách”, và có thể hiểu nhân vật “khách” chính là sự phân thân của tác giả. Ngay từ những dòng đầu tiên tác giả đã giới thiệu với đọc giả về tính cách, thú vui của kẻ khách là thích du ngoạn khắp nơi, tâm hồn tự do và tràn đầy sự phóng khoáng:
“Khách có kẻ… Lướt bể chơi trăng mải miết”
Nhân vật “khách” đã liệt kê ra hàng loạt những địa danh nổi tiếng qua kiến thức hiểu biết và qua trải nghiệm thực tế đi du ngoạn khắp nơi của chính mình. Trong đó có một loạt các địa danh vô cùng nổi tiếng của Trung Hoa như: Sông Nguyên, sông Tương, Cửu Giang, Vũ Huyệt, Đầm Vân Mộng, Tam Ngô, Ngũ Hồ, Bách Việt.
“Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt.
Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,.”
Kẻ khách khẳng định “Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết” để nói lên tri thức sâu rộng, phong phú của mình. Hơn thế “khách” còn nhắc tới “tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết” như lời bày tỏ về giấc mơ hoài bão to lớn và bản lĩnh khoáng đạt trong tấm lòng của mình. Ngoài các địa danh nổi tiềng trên đất Trung Hoa, kẻ khách còn nhắc tới những địa danh gắn liền với các sự kiện lịch sử trên đất Việt như: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng:
“Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều”.
Ta có thể thấy khách là một kẻ có tấm lòng yêu thiên nhiên chân thành say đắm, vốn hiểu biết sâu rộng lại cộng thêm thú vui đầy say mê luôn muốn được thỏa thích thưởng ngoạn, ngắm nhìn vẻ đẹp thiên nhiên. Và với tấm lòng yêu thiên nhiên tha thiết ấy, nhân vật khách đã khắc nét nên cảnh trí thiên nhiên nơi con sông Bạch Đằng vô cùng tinh tế và sống động, mang nhiều nét đẹp khác biệt:
“Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời một sắc, phong cảnh: ba thu.
Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”
Sông Bạch Đằng với vẻ “sóng kình muôn dặm” nhưng cũng không kém phần trữ tình với hình ảnh “Thướt tha đuôi trĩ một màu”. Trên từng đợt sóng dữ ấy là đoàn thuyền nối nhau như đuôi chim trĩ trôi trên sông vượt qua từng đợt sóng kình. Đất trời cùng sông nước hòa hợp với nhau “nước trời: một sắc” cùng một màu xanh trong còn phong cảnh cũng đẹp nhất trong tháng thứ ba của mùa thu. Cảnh sắc đất trời hiện lên thơ mộng, nhưng cũng đượm buồn với bờ lau, bến lách kết hợp với các từ láy “san sát”, “đìu hiu” khiến càng thêm hoang vắng và cô quạnh. Những bờ lau trắng nối nhau cạnh bờ sông, bến lách đìu hiu, thê lương. Đây là nơi chiến địa sinh tử với biêt bao con người ngã xuống, dưới sông là giáo gươm, trên gò là xương khô. Đó là minh chứng cho trang sử hào hùng không tránh khỏi tiếc thương và mất mát, hy sinh.
“Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!”
Trước khung cảnh nơi đây người ta chỉ còn cảm thấy nỗi buồn vì chiến tranh, buồn vì lịch sử cũng mai một theo thời gian.
Như vậy với đoạn mở đầu của “Bạch Đằng giang phú”, Trương Hán Siêu đã khiến người đọc đi qua nhiều trạng thái cảm xúc khác nhau, từ niềm tự hào về lịch sử dân tộc đến nỗi tiếc nuối vì thời gian khiến những giá trị lịch sử bị phai mờ, mai một. Từ đó khơi dậy ý thức về bảo vệ và gìn giữ giá trị lịch sử, ghi nhớ công ơn sự hi sinh của thế hệ đã ngã xuống để tạo nên nên nền hòa bình cho đất nước Việt Nam.
3. Phân tích đoạn một trong bài Phú sông Bạch đằng hay nhất:
“Bạch Đằng giang phú” là một tác phẩm văn học nổi bật, mang đậm giá trị văn hóa và lịch sử của dân tộc Việt Nam, được sáng tác bởi tác giả Trương Hán Siêu. Bài phú không chỉ khắc họa truyền thống anh hùng kiên cường, bất khuất của dân tộc mà còn thể hiện sự tôn vinh vẻ đẹp của thiên nhiên, của đất nước. Đặc biệt trong đoạn mở đầu, tác giả đã mô tả vẻ đẹp của sông Bạch Đằng, một địa danh gắn liền với những chiến công lịch sử vĩ đại, mang một ý nghĩa to lớn đối với dân tộc.
Qua cái nhìn của nhân vật “khách”, tác giả đã thể hiện sự du ngoạn, yêu thích khám phá của mình về các danh lam thắng cảnh, đặc biệt là cảnh sắc thiên nhiên sông Bạch Đằng. Tuy nhân vật “khách” không phải là tác giả trực tiếp, nhưng qua những gì mà “khách” kể lại, chúng ta hiểu rằng đó chính là người yêu thiên nhiên, phóng khoáng, tự do, thích lang thang khám phá các địa danh trong và ngoài nước. Mở đầu tác phẩm, nhân vật “khách” không chỉ giới thiệu về mình mà còn thể hiện một niềm tự hào sâu sắc về những chuyến đi qua các địa danh nổi tiếng từ Trung Quốc đến Việt Nam, trong đó có cả sông Bạch Đằng:
” Khách có kẻ…
Lướt bể chơi trăng mải miết”
Khi giới thiệu về các địa danh qua những chuyến du ngoạn của mình, nhân vật “khách” đề cập đến nhiều tên tuổi nổi tiếng từ Trung Quốc như sông Nguyên, sông Tương, Cửu Giang, Ngũ Hồ và nhiều địa danh khác. Nhưng điều đặc biệt là khi đi qua đất Việt, “khách” đã dành một phần lớn để miêu tả vẻ đẹp của những dòng sông như Bạch Đằng, Đông Triều, với niềm tự hào rõ rệt.
“Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương…
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều.”
Lời của nhân vật “khách” khẳng định sự hiểu biết phong phú về địa lý, đồng thời thể hiện tâm hồn rộng mở, hoài bão lớn lao của một người yêu thiên nhiên, thích khám phá và tìm hiểu những vẻ đẹp đất nước. Chính từ sự yêu thiên nhiên ấy, tác giả đã khắc họa sông Bạch Đằng với vẻ đẹp hùng vĩ và bi tráng qua những dòng chữ đầy cảm xúc:
“Đến sông Bạch Đằng thuyền bơi một chiều…
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”
Sông Bạch Đằng hiện lên qua những dòng thơ của Trương Hán Siêu với một vẻ đẹp đầy mâu thuẫn: vừa hùng vĩ, hiểm trở với “sóng kình muôn dặm” vừa trữ tình, nên thơ với hình ảnh “thướt tha đuôi trĩ một màu”. Tất cả hòa quyện giữa sự dữ dội của thiên nhiên và sự yên bình của những đoàn thuyền lướt nhẹ trên mặt sông. Hơn nữa, tác giả cũng đã phác họa một cảnh vật đầy thơ mộng khi mô tả cảnh sông Bạch Đằng vào mùa thu: “nước trời: một sắc”, “phong cảnh: ba thu” tức là cả đất trời hòa quyện trong một màu sắc, tạo ra vẻ đẹp dịu dàng, thơ mộng của cảnh vật.
Tuy nhiên, vẻ đẹp ấy cũng đượm buồn khi nhắc đến những dấu tích chiến tranh, những vết thương mà lịch sử để lại. Những bến lau, những gò xương khô, những chiếc giáo gãy trên dòng sông không chỉ là minh chứng cho những chiến thắng oai hùng mà còn gợi lên sự tang tóc, thương xót:
“Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu…
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”
Với những động từ mạnh mẽ như “buồn”, “thương”, “tiếc”, tác giả đã khắc họa rõ nét tâm trạng của nhân vật “khách”. Đó là sự tiếc nuối và cảm thương trước sự hy sinh của biết bao con người đã ngã xuống để bảo vệ đất nước. Những dấu vết lịch sử ấy dường như đã mờ phai theo thời gian, nhưng lại là chứng tích bất diệt về một thời kỳ hào hùng của dân tộc.
Qua đoạn mở đầu của “Bạch Đằng giang phú”, Trương Hán Siêu không chỉ tôn vinh chiến công của dân tộc mà còn thể hiện niềm tự hào và nỗi buồn sâu sắc đối với những giá trị lịch sử đã và đang dần phai nhạt theo thời gian. Đọc bài phú, người đọc không chỉ cảm nhận được lòng tự hào về những chiến công mà còn thức tỉnh được trách nhiệm bảo vệ, gìn giữ những giá trị lịch sử, để không quên công ơn của những thế hệ đã ngã xuống, bồi đắp nền hòa bình và độc lập cho đất nước như ngày hôm nay.