Phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà em ấn tượng nhất trong Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu lớp 8 gồm các đoạn văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 8 hay hơn và không bị lạc đề. Mời các em học sinh tham khảo trong bài viết dưới đây.
Mục lục bài viết
- 1 1. Phân tích chi tiết có tính trào phúng trong Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu:
- 2 2. Đoạn văn phân tích chi tiết có tính chất trào phúng trong Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu hay nhất:
- 3 3. Đoạn văn phân tích chi tiết có tính chất trào phúng trong Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu chọn lọc:
- 4 4. Đoạn văn phân tích chi tiết có tính chất trào phúng trong Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu ấn tượng:
- 5 5. Đoạn văn phân tích chi tiết có tính chất trào phúng trong Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu độc đáo:
1. Phân tích chi tiết có tính trào phúng trong Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu:
Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu là một trong những bài thơ trào phúng của Tú Xương. Chi tiết có tính chất trào phúng trong bài khiến tôi đặc biệt ấn tượng là khung cảnh nhập trường và xướng danh hiện lên vô cùng khôi hài:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”
“Sĩ tử” là tư dùng để chỉ tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến, đi theo nghiệp bút nghiên. Họ thường có phong thái nho nhã, điềm tĩnh. Nhưng hình ảnh “sĩ tử” trong bài thơ lại được miêu tả hiện lên với vẻ lôi thôi, nhếch nhác. Khung cảnh trường thi vốn là nơi trang nghiêm mà giờ chẳng khác nào cảnh họp chợ, viên quan coi trường thi thì “ậm oẹ” và “thét loa” – nhốn nháo không khác gì nơi chợ búa. Một chi tiết nhỏ nhưng cũng phản ánh được hiện thực đất nước lúc bấy giờ.
2. Đoạn văn phân tích chi tiết có tính chất trào phúng trong Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu hay nhất:
Trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu của Tú Xương có rất nhiều chi tiết thú vị. Nhưng tôi đặc biệt ấn tượng với chi tiết khắc họa hình ảnh quan sứ và mụ đầm:
“Lọng cắm rợp trời: quan sứ đến;
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.”
Việc tiếp đón những kẻ cướp nước chẳng biết lúc nào lại trở nên trang trọng nhưng khôi hài như vậy. Đặc biệt hơn cả là việc tác giả miêu tả hình ảnh mụ đầm. Theo quan điểm lễ giáo phong kiến thì trọng nam khinh nữ. Phụ nữ không được những nơi trang nghiêm như trường thi. Vậy mà bây giờ lại có hình ảnh “mụ đầm ra” với “váy lê quét đất” khiến ta thêm nức cười đó mà cũng thật xót xa. Xã hội phong kiến đã suy tàn, thoái hóa đến mức nào.
3. Đoạn văn phân tích chi tiết có tính chất trào phúng trong Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu chọn lọc:
Trong bài thơ “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu”, chi tiết cảnh nhập trường và xướng danh có tính chất trào phúng cao:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”
“Sĩ tử” vốn là những người thuộc tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến, theo nghiệp bút nghiên nên mang phong thái nho nhã. Nhưng hình ảnh “sĩ tử” ở đây lại hiện lên thật lôi thôi, nhếch nhác. Cách sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ, đưa từ láy “lôi thôi” lên đầu câu thơ đã gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Không chỉ vậy, khung cảnh trường thi lúc này không còn là chốn tôn nghiêm mà trở nên ồn ào, chẳng khác nào cảnh họp chợ nên quan trường mới “ậm oẹ” và “thét loa” – những người coi thi cũng chẳng còn cái phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có. Chỉ một chi tiết nhỏ nhưng đã góp phần khắc họa cảnh ngộ đất nước lúc bấy giờ.
4. Đoạn văn phân tích chi tiết có tính chất trào phúng trong Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu ấn tượng:
Trong bài thơ “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu”, Tú Xương đã xây dựng nhiều chi tiết trào phúng. Nhưng tôi cảm thấy ấn tượng nhất với chi tiết khắc họa hình ảnh sĩ tử và quan trường. “Sĩ tử” vốn là những người thuộc tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến, theo nghiệp bút nghiên nên mang phong thái nho nhã. Nhưng hình ảnh “sĩ tử” ở đây lại hiện lên thật lôi thôi, nhếch nhác. Cách sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ, đưa từ láy “lôi thôi” lên đầu câu thơ đã gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Không chỉ vậy, khung cảnh trường thi lúc này không còn là chốn tôn nghiêm mà trở nên ồn ào, chẳng khác nào cảnh họp chợ nên quan trường mới “ậm oẹ” và “thét loa” – những người coi thi cũng chẳng còn cái phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có. Qua chi tiết này, người đọc cười đấy mà cũng buồn đấy trước tình cảnh đất nước lúc bấy giờ.
5. Đoạn văn phân tích chi tiết có tính chất trào phúng trong Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu độc đáo:
Tú Xương, sinh năm 1870, bắt đầu tham gia thi cử từ khi mới 15 tuổi. Khoa Ất Dậu 1885, không đỗ. Khoa Mậu Tí 1888, khoa Tân Mão 1891 đều thất bại. Khoa Giáp Ngọ 1894, chỉ đỗ tú tài, khi ấy ông đã 24 tuổi và chính thức lấy tên là Tú Xương. “Thi không ăn ớt thế mà cay”. Tú Xương tiếp tục với 4 kỳ thi khác: Khoa Đinh Dậu 1897, khoa Canh Tí 1900, Khoa Quý Mão (1903) và khoa Bính Ngọ 1906. Nguyễn Tuân mô tả: “Thế rồi Tú Xương mất vào đầu năm sau (1907). Tức là Tú Xương thi cả đời, thi đến khi qua đời”.
Một cuộc sống văn chương chỉ có vẻ nhàm chán, trăm năm sống dấu nhấn vẫn đặt câu hỏi gì? (Buồn thi hỏng) Khoa thi Đinh Dậu đánh dấu sự kết hợp giữa niềm hy vọng và thất vọng. Kỳ thi trước đó (khoa Giáp Ngọ, 1894) ông đã đỗ tú tài nên kỳ thi này ông kỳ vọng sẽ đỗ cử nhân, bước lên đỉnh vinh quang: “Võng anh đi trước, võng nàng theo sau”. Bài thơ còn có tên gọi khác là “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu”. Nó mô tả lễ xướng danh khoa thi Hương tại trường Nam năm 1897, qua đó phản ánh nhục nhã mất nước và lòng đau xót của người sĩ tử thời đó.Hai câu đề giới thiệu một khía cạnh mới của kỳ thi Đinh Dậu:
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Thời điểm thi cử ngày cũ là của vua, của triều đình để tuyển chọn những nhân tài xuất sắc, chọn lựa những người có tài năng để phục vụ vua, phục vụ đất nước. Nhưng nay nước ta đã bị thực dân Pháp xâm chiếm, kỳ thi cử vẫn còn tồn tại theo kiểu cũ “ba năm mở một khoa” nhưng đã được diễn ra vào cuối mùa. Và những người chủ xướng các kỳ thi ấy là nhà nước, chính phủ. Câu thứ hai nhấn mạnh tính chất hỗn tạp của kỳ thi này: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Trong thời đại Nguyễn, tại Bắc Kì có hai trường thi Hương là trường thi Hà Nội và trường thi Nam Định. Bởi vì thực dân chiếm đóng trường thi Hà Nội, nên sĩ tử Hà Nội phải thi lẫn với trường Hà như vậy. Theo thông tin cổ, kỳ thi 1894, trường thi Nam Định có mười một ngàn sĩ tử, đỗ 60 cử nhân và 200 tú tài. Tú Xương đỗ tú tài ở kỳ thi đó. Điều chắc chắn là kỳ thi Hương năm Đinh Dậu, số lượng thí sinh tham gia còn đông hơn nhiều!
Hai câu miêu tả cảnh nhập trường và lễ xướng danh bằng những đường nét đặc sắc. Vì ông là người tham gia trực tiếp nên Tú Xương có thể làm nổi bật vẻ hùng vĩ của cảnh trường như thế. Hình dạng của sĩ tử là “vai đeo lọ”, trông thực sự lạc quan, “lôi thôi”. Sĩ tử thường là những con người đọc sách, những người giữ gìn vẻ ngoại hình lịch lãm, chỉnh chu. Thế mà lần này, sĩ tử đi thi với vẻ ngoại hình rối bời, đeo lọ mực lịm, không còn cái vẻ lịch lãm của người đọc sách. Một nhóm nhỏ nhưng đủ để thể hiện sự sụp đổ của xã hội. Sĩ tử không còn vẻ trí thức tao nhã, và đồng thời giám khảo cũng không còn vẻ nghiêm túc, đáng kính như trước nữa, chỉ còn vẻ “thét loa” như ở chợ, và nói chẳng qua là “ậm oẹ” như vậy. Một lần nữa, từ “ậm oẹ” được đặt lên đầu câu để làm nổi bật sự bất tài của đám quan trông thi. Họ chỉ là những kẻ tự phụ, dựa vào danh tiếng, không có tài năng và cả trí tuệ. Chính vì thế, mục đích của ông khi sử dụng hai từ này là để châm biếm, làm nổi bật sự hỗn loạn, lộn xộn của kỳ thi này.
Nét vẽ thứ hai cũng rất tinh tế:
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Ậm oẹ ở đây có nghĩa là ra vẻ hung hăng, đe dọa. Cấu trúc câu thơ đảo ngữ đặt hai tiếng tượng thanh “ậm oẹ” lên đầu câu để tăng cường hình ảnh về việc các quan trường “miệng thét loa”. Trường thi không còn là nơi tôn nghiêm, lễ nghi như trước nữa, nó trở nên hỗn loạn và ồn ào như chợ. Vì vậy, các quan trường mới “ậm oẹ” và “thét loa” như thế. Tú Xương muốn nói rằng, họ đã mất đi cái vẻ trang trí, uy nghi của mình. Bức tranh này làm nổi bật hai điều: sự hỗn loạn của trường thi và sự hết sức khinh bỉ của sĩ tử. Nếu họ là người có địa vị và uy tín thực sự, họ đã giữ được lòng tự trọng và trách nhiệm. Nhưng đám quan trường đã không giữ được điều này và trở nên như trẻ trâu.
Bức tranh thứ ba của ông là mô tả về ông Tây và mụ đầm:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Hai câu này là hình ảnh của cuộc đón tiếp cho “quan sứ”, lũ ăn cướp đất nước, là một sự kiện rất quan trọng và lớn lao. Hình ảnh “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” nói lên tính cách vô trách nhiệm, không biết quan tâm đến hình ảnh của mình. Điều này chứng tỏ rằng, sĩ tử đã mất đi cái vẻ đẹp nho nhã, trí thức và tinh tế của mình. Điều này cũng nhấn mạnh mất nước là nỗi đau, là sự bất lực. Bức tranh này tạo ra cảm giác phẫn nộ và khinh bỉ khi nhìn vào sự kiện này. Tú Xương đã sử dụng biện pháp diễn đạt này để làm nổi bật sự khinh bỉ của ông đối với các sĩ tử không đủ trí thức và không xứng đáng với danh hiệu cử nhân.
Lời thoại của ông là: “Một công dân không đánh được quan và binh sĩ bằng kiếm, thì ít nhất cũng phải lấy bút ra mà vẽ cái bức tranh này. Vẽ vào và than một vài lời”.
THAM KHẢO THÊM: