Lưu biệt khi xuất dương” khẳng định chí làm trai và quyết tâm xuất dương, làm nên sự nghiệp lớn của Phan Bội Châu. Bài viết dưới đây sẽ hướng dẫn phân tích bài thơ: Dàn ý số 1? Dàn ý số 2? Bài phân tích tác phẩm?
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích chí làm trai trong Lưu biệt khi xuất dương hay nhất:
1.1. Mở bài:
– Giới thiệu về Phan Bội Châu và khái quát về tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương.
1.2. Thân bài:
– Bài thơ thể hiện quan điểm về “chí làm trai” mới mẻ, khác biệt.
– Hai câu thơ đề: Chí làm trai của Phan Bội Châu trong tình hình đất nước mới với một cái tôi đầy trách nhiệm.
+ Phan Bội Châu đã đưa ra quan niệm chí làm trai mới: Thân là đấng nam nhi sống trong thiên hạ không chịu sống trong một khuôn phép mờ nhạt, phải dám bước ra ranh giới của sự an toàn để đạt được thành công.
+ Phan Bội Châu khẳng định không muốn ngồi chờ đợi vô nghĩa; đồng thời, bài thơ thể hiện sự quyết liệt, sự làm chủ của con người trước vũ trụ.
– Hai câu thơ thực: Vai trò về cái tôi và quan niệm công danh, ý thức trách nhiệm với dân tộc.
+ Cái tôi, “tớ” khẳng định ý thức, trách nhiệm của bản thân với đất nước trong thời kì nước mất, nhà tan, một cái tôi cao cả, cống hiến trước thời cuộc.
+ “Khoảng trăm năm”: nói về một kiếp người, một đời người.
+ “Sau này muôn thuở há không ai”: Một câu hỏi ngỏ nhưng chính là nhắc nhở chính mình.
– Hai câu thơ luận: Quan niệm về lòng yêu nước.
+ “Non sông đã chết sống thêm nhục”: câu thơ thể hiện tình cảnh đất nước đang trong tình cảnh lâm nguy, nhân dân phải sống trong cảnh lầm than.
+ Với nhà thơ, phải sống trong cảnh đất nước như vậy thật là nhục nhã, sống cũng như đã chết rồi.
→ Quan niệm sống chết, vinh thể hiện tinh thần bất khuất, không chịu sống dưới sự áp bức, bóc lột của kẻ khác, khát khao tìm con đường giải phóng dân tộc.
+ “Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”: Giấc mộng của Trạng Trình từng là khát khao, ước mộng của biết bao người; nhưng trong tình cảnh đất nước hiện nay với Phan Bội Châu thì sách thánh hiền cũng chẳng còn ý nghĩa gì nữa.
=> Nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu đã hi sinh lợi ích cá nhân để hướng đến những giá trị lớn lao hơn, đây là nguồn tư tưởng mới, ánh sáng mới nổi bật những năm đầu thế kỉ XX.
– Hai câu kết:
+ “Nguyện trục trường phong Đông hải khứ”: Con đường cách mạng phải vượt mọi gian khổ, khó khắn muôn trùng, vượt qua biển Đông để tìm ánh sáng, con đường mới cho dân tộc.
+ “Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”: tuy chưa được dịch sát nghĩa nhưng câu thơ vẫn thể hiện rõ được ý chí quyết tâm, yếu tố lãng mạn nhiều.
1.3. Kết bài:
– Trình bày cảm nghĩ về chí làm trai của Phan Bội Châu.
2. Dàn ý phân tích chí làm trai trong Lưu biệt khi xuất dương chi tiết nhất:
2.1. Mở bài:
– Phan Bội Châu là chiến sĩ yêu nước vĩ đại, là nhà văn, nhà thơ lớn của đất nước ta trong thế kỉ 20. Thơ ca của ông thể hiện nỗi niềm yêu nước và tuyên truyền cổ động cách mạng sôi sục đầy nhiệt huyết.
– Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương được Phan Bội Châu viết năm 1905, trước khi bí mật sang Nhật tìm đường cứu nước, dấy lên phong trào Đông Du.
2.2. Thân bài:
– Hai câu đề
+ Kẻ nam nhi sống trên đời phải “lạ”, nghĩa là phải làm nên sự nghiệp lớn; Lưu lại tiếng thơm muôn đời.
– Hai câu thực
+ Phan Bội Châu tự ý thức về cái Tôi (ngã: tôi, tờ); rất tự hào về vai trò của mình trong cuộc đời (một trăm năm) và trong xã hội, lịch sử (ngàn năm sau).
+ Tác giả hỏi “Chẳng lẽ ngàn năm sau, lại không có ai (để lại tên tuổi) ư?”
Nhằm khẳng định một ý tường vĩ đã hiện hữu ở hơn nửa thế kỉ đã nhiều lần rồi:
Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phái có danh gì với núi sông.
(Nguyễn Công Trứ).
+ Quan niệm về công danh, chí nam nhi của Phan Bội Châu thể hiện sự mới mẻ, tiến bộ, hướng về Tổ quốc và nhân dân “Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ. Tất cả vì nước, vì dân chứ không phải vì nghĩa vua — tôi” – “Dân là dân nước, nước là nước dân”.
– Hai câu luận:
+ Nêu lên một quan niệm sống của kẻ thi sĩ trước thời cuộc: Non sông đã chết, một cách nói rất hay, cảm động về nỗi đau thương của dân tộc, đất nước ta và nhân dân ta đang bị thực dân Pháp thống trị. Trong Hải ngoại huyết thư, tác giả viết: hồn nước bơ vơ/ Kẻ nam nhi, kẻ sĩ lập công danh trước hết bằng con đường học hành và thi cử. Ý thơ phủ nhận cách học hành thi cử cũ kĩ lạc hậu là đọc sách thánh hiền (đạo nho). Đây là hai câu thể hiện tư tưởng sâu sắc, tiến bộ nhất, cho thấy Phan Bội Châu là một chí sĩ tiên phong:
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.
– Hai câu kết:
+ Hình tượng thơ kì vĩ, hào hùng thể hiện một chí lớn mang tầm vũ trụ, không phải gió nhẹ mà là trường phong; không phải quanh quẩn chốn quan trường chật hẹp, mà đi phải vùng vẫy ra biển Đông với một sức mạnh phi thường, cùng bay lèn với ngàn lớp sóng bạc. Đây là những câu thơ đẹp nhất biểu lộ rõ nhất bầu nhiệt huyết, trí lớn của một bậc hiền triết.
2.3. Kết bài:
– Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, bằng chữ Hán, mang giọng điệu trang nghiêm, đĩnh đạc hào hùng, mạnh mẽ, lôi cuốn.
– Câu thơ thể hiện một chí lớn phi thường của nhà yêu nước: không cam tâm làm nô lệ, quyết đi tìm đường cứu nước và chính ông đã làm nên sự thật lịch sử cho cách mạng Việt Nam.
– Lưu biệt khi xuất dương mang âm điệu hùng ca, chứa chan tình yêu nước và chí lớn của nhà thi sĩ quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước.
3. Bài phân tích chí làm trai trong Lưu biệt khi xuất dương hay nhất:
Phan Bội Châu là một trong những chí sĩ yêu nước đầu tiên tiên phong trên con đường đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Mặc dù chí lớn không, nhưng ông mãi mãi là tấm gương sáng chói về lòng yêu nước thiết tha và ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất. Năm 1904, ông cùng các đồng chí của mình lập ra Duy Tân hội và hội chủ trương phong trào Đông Du, đưa thanh niên ưu tú sang Nhật Bản học tập để chuẩn bị lực lượng nòng cốt cho cách mạng và tranh thủ sự giúp đỡ của các thế lực bên ngoài. Trước lúc lên đường tìm kiếm con đường cách mạng cho dân tộc, Phan Bội Châu làm bài thơ Xuất dương lưu biệt để từ giã bạn bè, đồng chí.
Ngay từ những câu thơ đầu tiên, Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu đã cho thấy rõ chí làm trai của một người chí sĩ cách mạng:
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”,
“Muốn vượt biển Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”.
Cái chí làm trai mà nhà thơ nhắc đến trước hết là một lí tưởng sống, một khát vọng lớn lao, đó là đấng nam nhi phải làm được những việc lớn lao, xoay chuyển cả đất trời. Nhà thơ chuyển đại từ “ta” thành “tớ”, đại từ nhân xưng “tớ” phản ánh được sự lạc quan, trẻ trung, lại chứa nét ngông nghênh của người thi sĩ. Nhưng ẩn chứa trong ngông nghênh đó là cái tôi cá nhân tích cực của tác giả, cái tôi không những khẳng định trách nhiệm đối với vận mệnh của đất nước mà còn khẳng định nghĩa vụ với lịch sử. Chính ý niệm về chí làm trai mà Phan Bội Châu nói trong bài thơ khiến chúng ta thấy cảm phục về những con người sống với những lý tưởng cao đẹp, luôn ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình đối với lịch sử, đất nước.
Mỗi con người sống gắn liền với vận mệnh của đất nước, dân tộc, biết sống chết cùng dân tộc. Phải chăng, tác đang nói về mình nhưng thực chất là tiếng nói đại diện cho cả một tầng lớp, một thế hệ và cao hơn là cả dân tộc. Tuy nhiên, cách nhìn nhận, suy nghĩ của tác giả là hướng về tương lai phía trước chứ không phải là lối sống hoài niệm.
Sau khi tỏ bày quan niệm về chí nam nhi, Phan Bội Châu nói về trách nhiệm của chính mình với thời đại của mình:
“Ư bách niên trung tu hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”.
Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?
Nhận thức về sự hiện hữu của cái “tôi” và trách nhiệm của cá nhân với thời đại trong hoàn cảnh tối tăm của đất nước, dân tộc cái tôi có được một ý thức về trách nhiệm và nghĩa vụ của chính mình. Còn mối quan hệ giữa con người với muôn thuở, nhà thơ băn khoăn “Sau này muôn thuở há không ai?” Hỏi nhưng thật ra là để khẳng định, khẳng định niềm tin vào chính mình, lại càng có niềm tin vào cộng đồng, vào dân tộc. Thơ Phan Bội Châu xói vào tâm can người đọc, kích thích vào ý thức trách nhiệm của mỗi con người, nó như đang thúc giục mỗi người phải hành động, chuyển dời tự nhiên, chuyển dời xã hội. Đấy chính là nghĩa khí lớn của một nhà cách mạng.
Sang hai câu luận, nhà thơ càng nhấn mạnh hơn về mối quan hệ giữa con người với non sông đất nước, giữa cuộc sống thực tại với sách vở của thánh hiền:
“Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”
(Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.)
Nhiều nhà Nho cũng đã từng nói về nỗi nhục mất nước, nhưng chưa có ai nói lên một cách triệt để, thống thiết như vậy, đem sự sống chết của cá nhân mà gắn liền với sự vinh nhục đất nước thì không còn nghi ngờ gì nữa, Phan Bội Châu là nhà ái quốc vĩ đại. Tuy nhiên, câu thơ “Hiền thánh còn đâu học cũng hoài” không có nghĩa là nhà thơ phủ nhận đi vai trò của việc học và nền văn học nước ta thời bấy giờ. Nhưng đứng trong tình cảnh đất nước ấy, thì thánh hiền cũng hoài phí tài năng. Như vậy, từ quan niệm sống “Tư bách niên trung tu hữu ngã” của ông, tác giả tự dồn mình vào cái thế phải xuất dương cứu nước.
Hai câu kết, tác giả thể hiện trọn vẹn chủ đề Xuất dương lưu biệt:
“Nguyện trục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”,
(Muốn vượt biển Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi).
Hình ảnh thơ đẹp, lãng mạn, mở ra một không gian rộng lớn của biển Đông sánh với chí lớn của nhà cách mạng. Hình tượng thơ làm hiện lên trước mắt hàng ngàn đợt sóng sục sôi, không vỗ vào bờ mà “nhất tề phi”. Hình tượng vừa kì vĩ vừa thơ mộng thể hiện được tinh thần phơi phới, nhiệt huyết của nhà thơ – nhà chí sĩ cách mạng.
Xuất dương lưu biệt là một khúc hát giục giã lên đường, mặc dù đây không phải là đề tài mới, nhưng tư tưởng lại rất mới mẻ. Bài thơ mang âm hưởng lạc quan khiến là tráng ca của một vị anh hùng mà suốt đời không hề biết mệt mỏi trong hành động cứu nước thương dân.