Bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng chất liệu văn hóa dân gian một cách tinh tế và sáng tạo giúp làm cho bài thơ trở nên gần gũi và giàu hình ảnh. Mời các bạn tham khảo bài viết: Phân tích chất liệu văn hóa dân gian trong bài thơ Đất nước để hiểu rõ về chất liệu văn hóa dân gian được nhà thơ sử dụng trong tác phẩm.
Mục lục bài viết
1. Phân tích chất liệu văn hóa dân gian trong bài thơ Đất nước hay nhất:
Nhà thơ
Bài thơ “Đất Nước” được trích phần đầu chương V bản trường ca “Mặt đường khát vọng”, sáng tác tại chiến khu Trị – Thiên năm 1971, xuất bản 1974. Cảm hứng chủ đạo, tư tưởng bao trùm bài thơ là “Đất Nước là của nhân dân”.
Trước hết, để tìm hiểu xem nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng các loại chất liệu văn hóa nào và các hiệu ứng nghệ thuật của nó thì chúng ta cần nắm được về khái niệm của chất liệu văn hóa dân gian. Theo từ điển tiếng Việt, văn hóa dân gian bao gồm tất cả những giá trị vật chất và tinh thần do nhân dân sáng tạo nên trong trường kỳ lịch sử xa xưa. Vì vậy, chất liệu văn hóa dân gian là những giá trị, sản phẩm cả về vật chất và tinh thần (văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể, đặc biệt là văn học dân gian) góp phần tạo dựng nên nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Soi chiếu từ khái niệm ấy vào đoạn thơ “Đất nước”, có thể thấy rằng nhà thơ đã có ý thức trong việc tìm tòi, khai thác, vận dụng một cách sáng tạo các giá trị, chất liệu văn hóa dân gian, từ đó làm nổi bật tư tưởng cốt lõi của tác phẩm: Đất Nước là của Nhân Dân, Nhân Dân là chủ thể xây dựng và phát triển đất nước.
Trong phần đầu của đoạn thơ (Đất Nước có từ khi nào và bắt đầu từ cái gì?), nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã tập trung khai thác chất liệu văn hóa dân gian qua các thể loại văn học dân gian, các sản phẩm văn hóa về phong tục, sản xuất, đặc biệt là ý nghĩa phồn thực của chúng để làm nên bản sắc văn hóa của dân tộc. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” có thể nói là mô tuýp mở đầu quen thuộc của truyện dân gian Việt Nam. Hai hình ảnh “miếng trầu bà ăn” và “búi tóc sau đầu” của người mẹ gợi ra nhiều ý nghĩa: không chỉ là tập tục lâu đời của người Việt mà còn gợi ra bao giá trị văn hóa đặc sắc của người Việt Nam. Khi nhắc đến mái tóc người phụ nữ, đã có bao nhiêu câu tục ngữ, ca dao như: “Hàm răng mái tóc là góc con người”; “Tóc ngang lưng vừa chừng em búi/ Để chi dài bối rối dạ anh”,… Hay tục lệ ăn trầu gắn với miếng trầu đã kết tinh trong đó bao nhiêu giá trị: miếng trầu nhỏ nhắn nhưng không thể thiếu trong các nghi lễ trang trọng hỏi cưới, giỗ chạp. Miếng trầu là vật xã giao: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”; Miếng trầu kết duyên tình nghĩa vợ chồng, anh em: “Miếng trầu đỏ thắm nặng sâu tình người”; Miếng trầu còn là vật giao duyên tình chồng – vợ “Trầu này trầu tính trầu tình/ trầu loan trầu phụng, trầu mình lấy ta…”. Các hình ảnh “cái kèo, cái cột, hạt gạo” là sản phẩm văn hóa vật chất quen thuộc với thói quen ăn ở của người Việt và nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Cụm từ “gừng cay – muối mặn” không chỉ phản ánh văn hóa ẩm thực của dân tộc ta mà còn cho thấy về một lối sống tình nghĩa thủy chung được khai thác qua các câu ca dao, dân ca: “Tay bưng đĩa muối chén gừng/ Gừng cay, muối mặn xin đừng quên nhau” hoặc: “Muối đã mặn ngàn năm còn mặn/ Gừng đã cay muôn thuở còn cay…”.
Sang đến phần hai (Đất Nước là gì?), nhà thơ lại có một cách khai thác tìm tòi các chất liệu văn hóa dân gian đặc sắc: Đó là tập trung chủ yếu vào văn học dân gian, kết hợp với các giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại trong trách nhiệm bổn phận của thế hệ hôm nay. Hình ảnh “chiếc khăn” trong câu thơ “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” được lấy cảm hứng từ bài ca dao tình yêu: “Khăn thương nhớ ai /khăn rơi xuống đất/ khăn thương nhớ ai /khăn vắt trên vai..”, bởi đoa nhà thơ muốn truyền tải thông điệp: Đất Nước gắn với không gian sinh hoạt mỗi người và cũng là “không gian tình yêu lứa đôi”. Hãy hai câu dân ca “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc/ con cá ngư ông móng nước biển khơi” vừa bộc lộ tình yêu với quê hương Bình – Trị – Thiên của mình vừa để chỉ ra rằng: Đất nước gắn với không gian miền xuôi, miền ngược, rừng núi và biển đảo, là không gian sinh tồn và đoàn tụ của 54 dân tộc anh em trên mảnh đất hình chữ S.
Đáng chú ý là ở đoạn cuối của phần thơ này, tác giả đi sâu vào khai thác các truyền thuyết mang ý nghĩa lịch sử của dân tộc. Các hình ảnh “chim – rồng”, các nhân vật truyền thuyết “Lạc Long Quân – Âu Cơ”, “bọc trứng” gợi nhắc về cội nguồn tổ tiên cao quý đáng tự hào của dân tộc. Người Việt được gọi là “con Lạc cháu Hồng; con Rồng cháu Tiên”. Câu thơ: “Hàng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ” không chỉ nhắc nhở các thế hệ sau ghi khắc về công ơn của các thế hệ vua Hùng (18 đời) có công dựng nước và giữ nước được đúc kết qua câu tục ngữ ““Dù ai buôn ngược bán xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba”, mà còn ghi tạc đạo lí “uống nước nhớ nguồn” của ông cha ta.
Cuối cùng, ở phần ba – phần thể hiện tư tưởng cảm hứng sáng tác chủ đạo của đoạn thơ “Đất Nước là của Nhân Dân”, Nguyễn Khoa Điềm lại có cách triển khai chất liệu văn hóa dân gian một cách sáng tạo hơn nữa. Trong ý tưởng nhân dân làm nên Đất Nước trên bình diện không gian địa lý, nhà thơ đã khám phá nên sự giao thoa, hòa quyện của các truyền thuyết dân gian và các danh lam thắng cảnh cùng các di tích lịch sử văn hóa. Truyện “ Sự tích núi Vọng Phu” phải chăng được thêu dệt nên từ danh thắng những hòn Vọng Phu suốt chiều dài đất nước và từ đó để dân gian thổi vào tấm lòng thủy chung “chờ chồng nuôi con” của người phụ nữ Việt Nam? Hay “hòn trống mái” cũng rất có thể như vậy: khẳng định về vẻ đẹp của tình cảm vợ chồng luôn gắn bó sâu sắc bên nhau. Còn “gót ngựa Thánh Gióng, đất tổ Hùng Vương” lại khai thác các truyền thuyết dân gian: truyền thuyết Thánh Gióng và truyền thuyết các vua Hùng dựng nước, giữ nước. Một loạt tên các người dân: Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, bà Điểm lại được nhà thơ quy chiếu gắn với các địa danh, sơn danh Nam Bộ (cầu ông Đốc, ông Trang, núi bà Đen,chợ bà Điểm…).
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ gợi ra vài chất liệu khái quát nhằm khẳng định nhân dân là người xây dựng đất nước trên dặm dài lịch sử oanh liệt của dân tộc. Không phải ngẫu nhiên ở đoạn thơ này, ông lại lặp đi lặp lại đến hai lần con số 4.000 năm “bốn nghìn năm Đất Nước, bốn nghìn lớp người”, qua đó tác giả muốn gửi gắm đến người đọc thông điệp ngắn gọn rằng: Nhân dân chính là chủ thể viết lên những trang sử vẻ vang trong suốt 4000 năm của dân tộc. Và câu thơ “Khi có giặc người con trai ra trận” gợi nhắc chúng ta nhớ đến bài ca dao: “Nàng về nuôi cái cùng con/ Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng” có lẽ được ra đời vào thời Lê – Mạc tương tàn hay câu thơ: “Ngày giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” chính là câu tục ngữ “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” để thể hiện truyền thống anh hùng, bất khuất của phụ nữ Việt Nam.
Ở đoạn thơ khẳng định tư tưởng nhân dân làm nên Đất Nước trên bình diện văn hóa, Nguyễn Khoa Điềm đã liệt kê hàng loạt các sản phẩm, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể do nhân dân tạo lập nên. Đó chính là nền văn minh nông nghiệp “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa; họ chuyền lửa qua mỗi nhà, họ đắp đập be bờ…”. Đó là giá trị tinh thần tâm linh “Họ truyền giọng điệu của mình cho con tập nói, Họ gánh tên làng, tên xã trong mỗi chuyến di dân”. Hay cụm từ yêu em từ thuở trong nôi” lấy cảm hứng thế bài ca dao: “Yêu em từ thuở trong nôi/Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru” nhằm khẳng định tình cảm mãnh liệt, bền chặt, thủy chung của người Việt Nam. Câu thơ “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội” là lấy ý tứ từ câu ca dao: “Cầm vàng mà lội qua sông/ Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng” để nhắn nhủ với chúng ta rằng phải biết quý trọng công sức lao động. Câu thơ “Biết trồng tre… Đi trả thù không sợ dài lâu” lấy ý từ câu ca dao: “Thù này ắt hẳn còn lâu/ Trồng tre thành gậy, gặp đâu đánh què” nhắn nhủ mọi người chớ vội quên kẻ thù, mối thù đang chất chứa trong lòng. Người xưa có câu “Quân tử báo thù mười năm chưa muộn”. Tất cả những chất liệu văn học ấy góp phần thể hiện tâm hồn, tính cách, lẽ sống của dân tộc ta.
Nói một cách kết luận, việc nghiên cứu chất liệu văn hóa dân gian trong tác phẩm “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm càng góp phần tô đậm “dấu vân tay” trong cá tính sáng tạo nghệ thuật thơ của tác giản, được thể hiện qua nghệ thuật chắt lọc tinh tế, sâu sắc văn hóa dân gian, đồng thời khẳng định một chân lý “Văn hóa dân gian là bầu sữa nuôi dưỡng sự sáng tạo và tài năng nghệ thuật” văn nghệ sỹ.
2. Phân tích chất liệu văn hóa dân gian trong bài thơ Đất nước ngắn gọn:
Khi nhắc đến Nguyễn Khoa Điềm, ai cũng có thể hình dung ra một phong cách thơ sâu sắc xuất phát từ vốn tri thức uyên bác và văn hóa sâu sắc của dân tộc, những tri thức vừa sắc sảo huyền bí vừa mơ mộng huyền bí, thấp thoáng bóng dáng cổ xưa của dân tộc. Như nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã nói: “Thơ của Nguyễn Khoa Điềm chứa đựng nhiều yếu tố văn học và văn hóa dân gian. Câu thơ dù ở thể truyền thống hay thơ tự do thì luôn mang hơi thở của ca dao, tục ngữ. Văn hóa hiền minh của dân tộc hiện diện mạnh mẽ trong từng câu thơ”. Nguyễn Khoa Điềm sinh ra và lớn lên trong bối cảnh văn hóa của xứ Huế, điều này khiến cho thơ của ông trở nên sâu sắc và mơ hồ, đậm chất bí ẩn. Nguyễn Xuân Nam đã nhận xét rằng: “Thơ của Nguyễn Khoa Điềm… có khả năng kết nối mạnh mẽ. Ông thường dẫn dắt người đọc từ quá khứ đến tương lai, từ nỗi đau đến hạnh phúc, từ sách vở đến cuộc sống”. Với vốn tri thức phong phú từ Đông sang Tây cùng với chất liệu đời thực dồi dào, thơ của Nguyễn Khoa Điềm luôn đem lại cho người đọc những khám phá mới mẻ trong những tưởng tượng độc đáo.
Trong đoạn thơ “Đất nước” được trích từ trường ca “Mặt đường khát vọng”, ngôn từ thơ được lấy từ chất liệu văn học dân gian với tần suất cao. Nhưng trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm, có thể thấy rằng chất liệu văn học dân gian đã không còn là gốc rễ mà đã chuyển hóa thành ngôn từ, ngữ điệu, cảm xúc, tư duy của nhà thơ, tạo nên nét riêng trong thơ ông.
Dân tộc Việt Nam ta có một kho tàng phong phú bao gồm các câu ca dao tục ngữ sâu sắc, thể hiện về những tình cảm, phẩm chất cao quý của nhân dân cùng những kinh nghiệm trong lao động và cuộc sống. Ca dao tục ngữ được thấm đượm vào thơ của Nguyễn Khoa Điềm trong việc nhìn nhận về Đất Nước. Dấu ấn của ca dao, tục ngữ được tìm thấy nhiều trong mỗi câu thơ. Bằng việc giải thích nguồn gốc của Đất Nước, nhà thơ bắt đầu tạo dựng nên những tình cảm tự nhiên và nhận thức về đất nước từ những ký ức tuổi thơ. Những hình ảnh này đến từ tâm trạng sâu sắc kết hợp với hơi thở của ca dao dân ca, truyền thuyết của dân tộc. Đó là những hình ảnh này mang tính biểu tượng nhưng gần gũi:
“Đất Nước hiện ra trong những câu “ngày xưa kia…”
mẹ thường kể.
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu mẹ đang ăn
Đất Nước phát triển khi dân ta biết trồng tre để chống giặc
Tóc mẹ thường búi sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột có tên
Hạt gạo phải trải qua một nắng hai sương mới được xay, giã, giần, sàng
Đất Nước tồn tại từ thời xa xưa…”
Những hình ảnh này đã tạo nên một không gian văn hóa truyền thống mang tinh thần của câu ca dao “Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Mạch nguồn ấy tiếp tục trải qua quá trình lớn lên của mỗi người, từ lúc đi học đến những cảm xúc đầu đời. Tất cả đều tự nhiên, ngọt ngào trong ký ức:
“Đất là nơi mà tôi dựa vào
Nước là nơi mà tôi tắm
Đất Nước là nơi chúng ta hứa hẹn
Đất Nước là nơi mà tôi vô tình đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.”
Xuyên suốt cả thời gian và không gian hiện tại chính là sự thức tỉnh của ý thức cộng đồng, tổng hòa của những vẻ đẹp tinh thần và tâm linh của người Việt. Vẻ đẹp của quê hương ấy được tái hiện trong những lời ca dao tục ngữ, gợi lên lòng tự hào về đất nước, về con Rồng cháu Tiên, gắn bó với lòng biết ơn tổ tiên đã in sâu vào trong tiềm thức của mỗi người Việt Nam:
“Đất là nơi chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi cá ngư ông móng nước biển khơi
Thời gian trôi qua chậm rãi
Không gian vô hạn
Đất Nước là nơi dân ta đoàn tụ
Đất là nơi chim trở về
Nước là nơi rồng trú ngụ
Lạc Long Quân và Âu Cơ”
Do đó, gốc rễ dân tộc, nguồn cội tổ tiên luôn nhắc nhở mọi người Việt rằng:
“Hàng năm ăn uống ở đâu, làm việc ở đâu
Cũng nhớ ngày giỗ tổ tiên”
Tôn kính tổ tiên, yêu quê hương cha đất tổ, là những yếu tố góp phần tạo nên truyền thống yêu nước của Việt Nam.
Những câu thơ tưởng chừng như không có gì đặc biệt. Thế nhưng mỗi câu thơ lại tái hiện những lời ca dao, tục ngữ, cổ tích nhưng khi đọc lên chúng ta vẫn có thể cảm nhận được những âm vang thấm thía và xúc động. Những điều vốn hiển nhiên nhưng bỗng chốc trở nên quý báu, thể hiện một sức mạnh vô hạn, bất diệt của dân tộc trên số phận của mỗi người dân trong quá trình lịch sử. Trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước được ca ngợi bởi vẻ đẹp văn hóa truyền thống, gần gũi và thiêng liêng. Bởi việc khéo léo vận dụng những chất liệu văn học dân gian từ truyện dân gian, truyền thuyết, các câu chuyện cổ tích, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo nên một ngôn ngữ thơ sắc nét, mang đậm bản sắc dân tộc.
Trong những năm đất nước còn bị chia cắt, nhà thơ đã đánh thức những giá trị sâu sắc của Đất Nước, thổi bùng ngọn lửa tình yêu cháy bỏng trong lòng của tuổi trẻ miền Nam. Thông qua việc khai thác chất liệu văn hóa dân gian, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã nhấn mạnh chiều sâu văn hóa lịch sử của đất nước, một di sản thiêng liêng được cha ông truyền lại. Mọi di sản văn hóa, từ sông núi cho đến những truyền thuyết, đều được nhìn nhận dưới từ khát vọng và sự truyền đạt qua các thế hệ.
3. Phân tích chất liệu văn hóa dân gian trong bài thơ Đất nước ấn tượng:
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ thuộc thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Những bài thơ của ông có sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc vì sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc nồng nàn và suy nghĩ sâu sắc về đất nước, con người Việt Nam. Trong sự nghiệp văn chương của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã đóng góp cho thơ ca nước nhà nhiều tác phẩm quan trọng có giá trị về nội dung cũng như nghệ thuật. Nổi tiếng nhất là trường ca “Mặt Đường Khát Vọng” được nhà thơ sáng tác ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971 và xuất bản lần đầu năm 1974, một tác phẩm nhằm đánh thức tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam. Và đoạn trích Đất Nước – phần đầu chương V của bản trường ca, được xem là một trong những đoạn thơ hay về chủ đề đất nước.
Thành công của Nguyễn Khoa Điềm qua đoạn trích “Đất nước” một phần là nhờ vào tạo dựng được không khí, giọng điệu, phong cách nghệ thuật độc đáo đưa người đọc đến với thế giới đẹp đẽ, mỹ lệ của thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, ca dao truyền thống của phong tục tập quán nhưng lại mới mẻ qua cách cảm nhận và tư duy hiện đại được thể hiện dưới hình thức câu thơ tự do, lời thơ như lời văn xuôi, lời kể chuyện cổ tích. Đó chính là nét đặc sắc thẩm mỹ, thống nhất với tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” của đoạn trích. Trong đó, chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đa dạng và đầy sáng tạo. Có thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ca dao, tục ngữ. Có phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt, các vật dụng như miếng trầu, tóc bới sau đầu, cái kèo, cái cột, hạt gạo xay, giã, giần, sàng, hòn than, con cúi,… Cách vận dụng của tác giả thường là chỉ gợi ra bằng một vài chữ của câu ca dao hay một hình ảnh, một chi tiết trong truyền thuyết, cổ tích.
Sự sáng tạo, vận dụng sáng tạo các chất liệu văn hóa, văn học dân gian của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã tạo nên một không gian nghệ thuật độc đáo cho đoạn trích, vừa giản dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa đầy tưởng tượng và bay bổng. Ngoài ra, có thể nói, chất liệu dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Khoa Điềm và hình thành nên nét đặc trưng trong tư duy nghệ thuật của ông. Chỉ cần nói đến việc sử dụng ca dao, tục ngữ, ngạn ngữ, chúng ta cũng có thể thấy được sự tinh tế của tác giả trong cách biểu đạt rất riêng và độc đáo.
Khi nhà thơ suy ngẫm về cội nguồn của đất nước cũng là cội nguồn của mỗi gia đình, ông đã nhận ra rằng Đất Nước không chỉ được hình thành nên bởi những gì xa xôi, trừu tượng mà được hình thành từ tình nghĩa thủy chung của cha mẹ qua câu thơ:
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Đây là ý thơ cho ta thấy tác đã gợi tả từ cái gốc của chất liệu văn học dân gian, lấy cảm hứng từ câu ngạn ngữ “gừng cay muối mặn”, chỉ ra những cay đắng gian nan đã làm nên sự gắn bó trong tình nghĩa vợ chồng. Và thói quen, tâm lý tình cảm này cũng làm cho ta nhớ đến câu ca dao hết sức trìu mến:
“Tay bưng chén muối đãi gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Khi nói về tình yêu đôi lứa, lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm cũng hết sức mượt mà khi cho thấy rằng đất nước gắn bó với con người trọn đời: từ thuở ấu thơ đến lúc trưởng thành, khi biết yêu thương, hẹn hò, nhớ nhung thì những tình cảm ấy lại gắn với hình ảnh Đất Nước:
“Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Khi xúc cảm nên dòng thơ này, dường như nhà thơ đang muốn tâm sự: trong tình yêu đôi lứa, trong nỗi nhớ nhung da diết của em đã hiện hữu tình yêu Đất Nước. Và đó cũng là nỗi nhớ không định hình được mà câu ca dao tình yêu quen thuộc cất lên rất gần gũi và hết đỗi đời thường:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất…”
Và khi Nguyễn Khoa Điềm nhằm giải bày Đất Nước trải ra theo chiều dài, chiều rộng của không gian nhưng không gian ấy thật gần gũi, là nơi con chim bay về, nơi con cá móng nước:
“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Có thể thấy rõ ràng rằng, ý thơ này đã được nhà thơ lấy cảm hứng trọn vẹn từ câu hò Bình – Trị – Thiên quen thuộc. Đó là bởi Nguyễn Khoa Điềm được sinh ra và trưởng thành trên vùng đất giàu giá trị văn hóa, cho nên thơ của ông thấm đẫm hồn của mảnh đất xứ Huế. Chính vì thế nên khi khái quát về Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm cũng đã nghĩ ngay đến câu ca dao bình dân của quê hương xứ sở mình:
“Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc
Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi
Gặp nhau đây xin phân tỏ đôi lời
Kẻo mai kia con cá về sông vịnh, con chim nọ đổi dời về non xanh”
Bởi tình cảm tự hào về một đất nước có bề dày lịch sử 4.000 năm nên nhà thơ đã hướng về một yếu tố mang tính tâm linh nhưng hết sức truyền thống của người Việt. Bởi chính nhân dân là những người đã làm nên cái hồn văn hóa và đạo lý truyền thống cao cả cho đất nước nên nhà thơ đã tâm sự:
“Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Cội nguồn dân tộc, gốc gác tổ tiên chính là những yếu tố góp phần làm nên truyền thống yêu nước của người Việt Nam. Vì thế, bái vọng tổ tiên là điều không thể thiếu, thể hiện sự tôn trọng đầy thiêng liêng của người sống đối với người đã khuất. Đây cũng là ý thơ mà trong ca dao đã từng nhắc nhở:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”
Có thể nói rằng, trong kho tàng ca dao dân ca Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng màu sắc của dân tộc, nhà thơ đã chọn lọc những câu ca dao tiêu biểu nhất để nói về các phương tiện truyền thống khác nhau của người dân Việt Nam. Trong đó, câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm nhằm diễn tả sự say đắm trong tình yêu nhân văn, nhân bản và cao đẹp nhất:
“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”
Là ý tứ từ câu ca dao đầy ngọt ngào, trìu mến, bình dị và hết sức thân quen, nó thường trực hằng ngày mà trong những đôi nam nữ, trai gái yêu nhau không khó để nhận ra:
“Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru”
Có lúc câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm là nhằm nói đến sự quý trọng trong lối sống tình nghĩa, biết nâng niu, trân trọng những gì có được từ khó nhọc, gian nan:
“Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”
Thì đâu đó phản phất trong ca dao cũng đã đúc kết và nhắc nhở mọi người rằng:
“Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”
Không chỉ vậy, câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm cũng đề cập đến một phẩm chất nữa của người dân Việt Nam: Đó chính là bền bỉ, kiên cường trong chiến đấu dựng nước và giữ nước. Đó là bởi đất nước là của nhân dân, do nhân dân làm nên, nên đất nước mãi mãi trường tồn, bất diệt:
“Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Điều này cũng có nghĩa là trong ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ đã luyến láy, cảm hứng xuất phát từ cái gốc của câu ca dao đầy hùng hồn và đanh thép:
“Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què”
Có thể thấy rằng, ở tất cả những dòng thơ trên của Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ đã vận dụng và chuyển ý một cách sáng tạo những câu ca dao, ngạn ngữ thành lời thơ đằm thắm, trữ tình, thiết tha, không ngoài mục đích là ca ngợi nhân dân, ca ngợi bản sắc văn hóa của người Việt Nam.
Đặc sắc, độc đáo về nghệ thuật sử dụng chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn trích Đất nước còn là sự cảm nhận về đất nước trong một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện. Vừa theo mạch cảm xúc thơ, tác giả vừa huy động vào thơ cả một “kho tri thức” phong phú, mang tính tổng thể các loại văn học dân gian, làm nền tảng vững chắc để đánh bật tư tưởng của đoạn trích. Trong lời mở đầu đoạn trích Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã viết:
“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể”
Lời thơ “ngày xửa ngày xưa” là câu mở đầu thường thấy trong các truyện cổ dân gian, nó mang âm hưởng của những câu chuyện cổ tích, đưa ta về một thuở rất xa xưa.
Sự kỳ diệu của đất nước trong quá trình chống giặc ngoại xâm cũng được nhà thơ gợi lên từ tinh thần nhổ tre đánh giặc của Thánh Gióng mà truyền thuyết đã kể lại. Cùng những hình tượng quen thuộc trong thần thoại, truyền thuyết như: chim, rồng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, bọc trăm trứng,… hội tụ trong trường liên tưởng của nhà thơ đã làm nổi bật ý thơ có tầm khái quát cao: dân tộc Việt Nam là “con Rồng cháu Tiên” được sinh ra từ bọc trăm trứng nở ra trăm con với cha là Lạc Long Quân và mẹ là Âu Cơ. Vì vậy để gợi nhớ truyền thuyết con Rồng cháu Tiên, Nguyễn Khoa Điềm đã liên tưởng:
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Nếu tròn mỗi chúng ta, ai đó chưa hiểu hết và đúng đắn về đất nước với những khái niệm trừu tượng như lãnh thổ, chủ quyền thì thông qua những lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm, chúng ta sẽ cảm nhận được đất nước và một cái gì đó rất gần gũi, quen thuộc qua những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích mẹ thường kể từ thuở còn nằm trong nôi.
Hơn nữa, đất nước còn được hình thành từ những truyền thống cao đẹp như truyền thống yêu nước, anh hùng, lao động, văn hóa của dân tộc Việt Nam. Trước hết phải kể đến là truyền thống văn hóa với phong tục ngàn đời đã được cha ông ta đúc kết lại. Vì thế khi Nguyễn Khoa Điềm tâm sự:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
Đó là phong tục “miếng trầu là đầu câu chuyện” có từ thuở các vua Hùng dựng nước. Hay gợi nhớ câu chuyện “Trầu cau” đầy nghĩa tình vừa mang yếu tố truyền thuyết lại vừa đậm yếu tố đời thường cũng là gợi nhớ tục ăn trầu của người Việt.
Khi nhà thơ miêu tả dáng dấp thấp thoáng của người mẹ hiện lên trong vẻ đẹp đầy nữ tính của người phụ nữ Việt Nam, ông đã viết như sau:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu”
Tục búi tóc thành cuộn sau gáy là tập quán của người dân Việt Nam, thể hiện quan niệm “Cái răng cái tóc là góc con người” mà đã một thời tô điểm vẻ đẹp bên ngoài của người phụ nữ Việt.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã đưa đến cho người đọc một quan niệm về hình thành đất nước. Đất nước được hình thành từ trong cộng đồng, từ những ngôn ngữ dân dã, bình dị, mà cụ thể là thói quen đặt tên con bằng tên các đồ vật cho dễ nuôi của người dân lao động nước ta:
“Cái kèo, cái cột thành tên”
Miếng trầu dung dị hiện lên trên cái miệng móm mém nhai trầu của bà, mái tóc mới hiền hòa của mẹ, cách gọi tên “cái kèo, cái cột” dân dã, tất cả những điều đó tưởng chừng như bình thường ấy đã trở thành nếp sống, thành phẩm chất tốt đẹp, thuần phong mỹ tục đậm đà bản sắc mang tính văn hóa Việt Nam.
Có thể thấy rằng, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng chất liệu văn hóa dân gian một cách sáng tạo. Ông không trích dẫn nguyên văn các câu ca dao, tục ngữ, không kể dài dòng về các truyền thuyết, truyện cổ tích, các phong tục tập quán mà chỉ bắt lấy rất tinh tế cái hồn của chất liệu dân gian để gợi liên tưởng, suy ngẫm cho người đọc. Cho nên khi tiếp xúc với thơ của Nguyễn Khoa Điềm, người đọc có cảm giác vừa quen vừa lạ. Quen bởi vì từ thuở ấu thơ, mỗi người trong chúng ta ai cũng đã từng được sống trong không khí văn hóa dân gian, cho nên trong mỗi người Việt Nam đều hết sức nhạy cảm với ca dao, dân ca, cổ tích, truyền thuyết hay các phong tục tập quán. Lạ là khi đọc những dòng thơ này do từ những chất liệu văn hóa dân gian rất gần gũi ấy, nhà thơ đã thu nạp được nhiều ý tưởng rất thơ, rất êm dịu và cũng bất ngờ đem lại sức hấp dẫn cho tác phẩm.
Đến đây ta có thể nhận ra rằng, vẻ đẹp của chất liệu văn hóa dân gian là vô cùng quan trọng đối với văn học viết nói riêng và văn học nghệ thuật nói chung. Và cũng chính những chất liệu văn hóa dân gian ấy khi được cảm nhận sâu sắc và vận dụng một cách sáng tạo vào thơ ca sẽ tạo nên những âm vang rất lớn để trường tồn và song hành cùng với thời gian. Chính chiều sâu của những chất liệu văn hóa dân gian đã tạo nên nét độc đáo của đoạn trích “Đất Nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
THAM KHẢO THÊM: