Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm được sử dụng vừa quen thuộc vừa mới lạ. Để hiểu rõ hơn về chất liệu văn hóa dân gian này mời các bạn tham khảo bài viết phân tích chất liệu văn hóa dân gian qua bài thơ Đất nước dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Phân tích chất liệu văn hóa dân gian qua bài thơ Đất nước:
Bài thơ Đất Nước trích phần đầu chương V bản trường ca Mặt đường khát vọng, được sáng tác tại chiến khu Trị – Thiên năm 1971, xuất bản 1974. Cảm hứng chủ đạo, tư tưởng bao trùm bài thơ làn“Đất nước là của nhân dân”. Theo đó bài thơ được sáng tác theo phương thức trữ tình- chính luận, có kết cấu 3 phần: phần 1: Đất Nước có từ khi nào và bắt đầu từ cái gì?; phần 2: Đất Nước là gì ? phần 3: Đất Nước do ai làm ra? Khác với các nhà thơ khác viết về Đất nước – Tổ quốc, Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận và quy chiếu Đất Nước dưới 3 phương diện: thời gian (chiều dài) ; không gian (chiều rộng); văn hoá (chiều sâu),nhất là chiều sâu văn hoá dân tộc.
Trước hết, xin giới thuyết ngắn gọn khái niệm chất liệu văn hoá dân gian. Dựa theo Từ điển tiếng Việt, văn hoá dân gian là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do nhân dân sáng tạo ra trong trường kì lịch sử thời xa xưa. Theo đó, chất liệu văn hoá dân gian là những giá trị, những sản phẩm cả vật chất lẫn tinh thần (văn hoá vật thể và phi vật thể, đặc biệt là văn học dân gian) góp phần tạo dựng, hun đúc nên nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Từ khái niệm ấy, soi chiếu vào bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, ta thấy nhà thơ đã rất ý thức và có nhiều tìm tòi, khai thác vận dụng sáng tạo các giá trị, chất liệu văn hoá để làm nổi bật tư tưởng chủ đạo của bài thơ: Đất Nước là của Nhân Dân, chứ không phải của các vương triều như quan niệm phong kiến ngày xưa.
Ở phần đầu bài thơ (Đất Nước có từ khi nào và bắt đầu từ cái gì?), nhà thơ tập trung khai thác chất liệu văn hoá dân gian qua các thể loại văn học dân gian, các sản phẩm văn hoá về phong tục,sản xuất, đặc biệt là ý nghĩa phồn thực của chúng làm nên bản sắc văn hoá dân tộc. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” là mô tuýp mở đầu quen thuộc của truyên dân gian. Hai hình ảnh “miếng trầu” bà ăn và “búi tóc” sau đầu của mẹ gợi ra nhiều ý nghĩa. Đó không chỉ là tập tục lâu đời ở người Việt khác xa với người Hán, mà còn gợi ra bao giá trị văn hoá đặc sắc của người Việt. Gắn với mái tóc người phụ nữ có bao nhiêu câu tục ngữ, ca dao: “Hàm răng mái tóc là góc con người”; “Tóc ngang lưng vừa chừng em búi/ Để chi dài bối rối dạ anh”… Hay tục ăn trầu gắn với miếng trầu đã kết tinh trong nó bao nhiêu giá trị sâu xa. Miếng trầu nhỏ nhắn nhưng không thể thiếu trong các nghi lễ trang trọng: hỏi cưới, giỗ chạp. Miếng trầu là vật xã giao: “miếng trầu là đầu câu chuyện”; miếng trầu kết duyên tình nghĩa vợ chồng, anh em: “miếng trầu đỏ thắm nặng sâu tình người”; miếng trầu còn là vật giao duyên tình chồng – vợ “Trầu này trầu tính trầu tình/ trầu loan trầu phụng, trầu mình lấy ta…” Chúng ta có cả một “văn hoá trầu”! Các hình ảnh “cái kèo cái cột, hạt gạo” là sản phẩm văn hoá vật chất gắn với thói quen ăn ở của người Việt và cả nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Cụm từ “gừng cay – muối mặn” không chỉ phản ánh văn hoá “ẩm thực” của dân tộc ta mà còn gợi ra lối sống tình nghĩa thuỷ chung, được khai thác qua các câu ca dao – dân ca: “Tay bưng đĩa muối chén gừng/ Gừng cay, muối mặn xin đừng quên nhau”; hoặc: “Muối đã mặn ngàn năm còn mặn/ Gừng đã cay muôn thuở còn cay…”. Thật là xúc động và thấm thía.
Sang phần 2 “Đất Nước là gì?” nhà thơ lại có cách khai thác, tìm tòi các chất liệu văn hoá dân gian đặc sắc. Đó là tập trung chủ yếu vào văn học dân gian, kết hợp các giá trị văn hoá truyền thống với hiện đại trong trách nhiệm bổn phận của chúng ta hôm nay. Hình ảnh “chiếc khăn” trong câu thơ “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” lấy cảm hứng từ bài ca dao tình yêu: “Khăn thương nhớ ai /khăn rơi xuống đất/ khăn thương nhớ ai /khăn vắt trên vai..” nhà thơ muốn chuyển tải thông điệp: Đất Nước gắn với không gian sinh hoạt mỗi người, và cũng là “không gian tình yêu lứa đôi” . Hai câu dân ca “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc; con cá ngư ông móng nước biển khơi” không chỉ bộc lộ tình yêu với quê hương Bình – Trị – Thiên của mình, mà còn để chỉ ra rằng: đất nước gắn với không gian miền xuôi, miền ngược; rừng núi và biển đảo, là không gian sinh tồn và đoàn tụ của 54 dân tộc anh em.
Đáng chú ý là ở đoạn cuối phần thơ này, tác giả tập trung khai thác các truyền thuyết mang ý nghĩa lịch sử của dân tộc. Các hình ảnh “chim – rồng”, các nhân vật truyền thuyết “Lạc Long Quân- Âu Cơ”, “bọc trứng” gợi nhắc về cội nguồn tổ tiên cao quý đáng tự hào của dân tộc. Người Việt là “con Lạc cháu Hồng; con Rồng cháu Tiên”. Câu thơ: “Hàng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”, không chỉ nhắc nhớ về các thế hệ vua Hùng (18 đời) có công dựng nước và giữ nước được đúc kết qua câu tục ngữ: “Dù ai buôn ngược bán xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba”, mà còn ghi tạc đạo lí “uống nước nhớ nguồn” của ông cha.
Sang phần 3 – phần thể hiện tập trung cảm hứng chủ đạo bài thơ: “Đất Nước là của Nhân Dân”, Nguyễn Khoa Điềm lại có cách khai thác, tìm tòi sáng tạo.
Trong ý tưởng nhân dân làm nên Đất Nước trên bình diện không gian địa lí, nhà thơ đã tập trung tìm tòi khám phá sự giao thoa hoà quyện các truyền thuyết dân gian với các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử văn hoá. Truyện Sự tích núi Vọng Phu vả chăng được dệt nên từ danh thắng những hòn Vọng Phu suốt chiều dài đất nước, và để dân gian thổi vào đó tấm lòng thuỷ chung “chờ chồng nuôi con” của người phụ nữ Việt Nam? Rồi “hòn trống mái” cũng rất có thể như vậy. Chủ ý là khẳng định vẽ đẹp trong tình cảm vợ chồng luôn gắn bó son sắt bên nhau. Còn “gót ngựa Thánh Gióng; đất Tổ Hùng Vương” lại khái thác các truyền thuyết dân gian: truyền thuyết Thánh Gióng và truyền thuyết các vua Hùng dựng nước và giữ nước. Một loạt tên các người dân: Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, bà Điểm lại được nhà thơ quy chiếu gắn với các địa danh, sơn danh Nam Bộ (cầu ông Đốc, ông Trang, núi bà Đen,chợ bà Điểm…).
Để khẳng định nhân dân là người gánh đất nước trên dặm dài lịch sử oanh liệt của dân tộc, nhà thơ chỉ gợi ra vài chất liệu khái quát. Không phải ngẫu nhiên ở đoạn này ông lặp lại hai lần con số 4000 năm (bốn nghìn năm Đất Nước, bốn nghìn lớp người). Thông điệp ngắn gọn nhân dân là người viết nên những trang sử vẻ vang trong suốt 4000 ngàn năm của dân tộc . Câu thơ “Khi có giặc người con trai ra trận” gợi nhắc bài ca dao: “Nàng về nuôi cái cùng con/ Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng” có lẽ ra đời thời Lê – Mạc tương tàn. Câu thơ: “Ngày giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” chính là câu tục ngữ “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” để thể hiện truyền thống anh hùng, bất khuất của phụ nữ Việt Nam…
Ở đoạn khẳng định nhân dân làm nên Đất Nước trên bình diện văn hoá, Nguyễn Khoa Điềm liệt kê hàng loạt các sản phẩm, các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể do nhân dân tạo lập nên. Đó là nên văn minh nông nghiệp: “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa; họ chuyền lửa qua mỗi nhà, họ đặp đập be bờ…”. Đó là giá trị tinh thần tâm linh “Họ truyền giọng điệu của mình cho con tập nói, Họ gánh tên làng, tên xã trong mỗi chuyến di dân”. Đoạn thơ cuối nhà thơ khai thá chiều sâu ý nghĩa trong nhiều bài ca dao – dân ca. Cụm từ “yêu em từ thuở trong nôi” lấy từ bài ca dao: “Yêu em từ thuở trong nôi/ Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru” để khẳng định tình cảm mãnh liệt, bền chặt, thuỷ chung của người Việt. Câu thơ “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội” là lấy ý tứ từ câu ca dao: “Cầm vàng mà lội qua sông/ Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng” muốn nhắn nhủ với chúng ta phải biết quý trọng công sức lao động. Câu thơ “Biết trồng tre… Đi trả thù không sợ dài lâu” lấy ý từ câu ca dao: “Thù này ắt hẵn còn lâu/ Trồng tre thành gậy, gặp đâu đánh què” là để nhắn nhủ mọi người chớ vội quên kẻ thù, mối thù ta đang chất chứa trong lòng. Người xưa có câu “Quân tử báo thù 10 năm chưa muộn”. Tất cả góp phần thể hiện tâm hồn, tính cách, lẽ sống của dân tộc ta.
Tóm lại, tìm hiểu chất liệu văn hoá dân gian trong bài thơ Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm góp phần giúp giáo viên và học sinh nhận diện các giá trị các sản phầm văn hóa dân gian, và sự tìm tòi khai thác sáng tạo đặc sắc của nhà thơ trong việc thể hiện cảm hứng chủ đạo bài thơ “Đất Nước là của Nhân Dân” khi giảng dạy học tập bài thơ này nói riêng và một số bài thơ khác có khai thác sử dụng văn hóa dân gian nước ta nói chung. Tìm hiểu chất liệu văn hóa dân gian trong bài thơ Đất Nước của nhà thơ góp phần tô đậm “dấu vân tay” trong cá tính sáng tạo nghệ thuật thơ của tác giả qua nghệ thuật chắt lọc tinh tế, sâu sắc văn hoá dân gian của Nguyễn Khoa Điềm, đồng thời khẳng định một chân lí “văn hóa dân gian là bầu sữa nuôi dưỡng sự sáng tạo và tài năng nghệ thuật” văn nghệ sỹ.
2. Phân tích chất liệu văn hóa dân gian qua bài thơ Đất nước hay nhất:
Vận dụng sáng tạo chất liệu văn hóa văn học dân gian là đưa yếu tố văn hoá, văn học dân gian một cách sáng tạo vào trong tác phẩm. Để làm được điều này một cách tự nhiên, nhuần nhị, hấp dẫn là điều không hề dễ dàng. Nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã làm được điều đó. Đọc “Đất Nước”, ta thấy có những yếu tố của thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ca dao, tục ngữ. Có phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt của dân ta gắn với những hình ảnh quen thuộc như miếng trầu, bới tóc, cái kèo, cái cột, hạt gạo. Những chất liệu ấy được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sử dụng rất đa dạng và sáng tạo trong “ Đất Nước”. Điểm sáng tạo của nhà thơ khi vận dụng chất liệu là tác giả thường chỉ gợi ra bằng một vài chữ của câu ca dao hay một hình ảnh, một chi tiết trong truyền thuyết, cổ tích mà giúp người đọc cảm nhận được hình ảnh của một Đất Nước vừa thiêng liêng, vừa hiện hữu rõ ràng, vừa có chiều sâu văn hóa lịch sử, vừa bình dị thân quen với cuộc sống của mỗi người.
Điểm đầu tiên phải kể đến trong việc vận dụng sáng tạo chất liệu văn hoá, văn học dân gian trong đoạn trích Đất Nước là vận dụng ca dao, tục ngữ một cách nhuần nhị.
Mở đầu đoạn trích, tác giả đi lí giải về cội nguồn sinh ra đất nước. đất nước với Nguyễn Khoa Điềm không được tạo nên bởi những gì trừu tượng, xa xôi mà được hình thành, tạo nên bởi những gì gần gũi nhất. Đó là tình nghĩa thuỷ chung son sắt của cha mẹ:
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Câu thơ được lấy ý từ câu ca dao:
Tay bưng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Ý thơ nhằm ca ngợi lối sống giàu tình nghĩa và tấm lòng thủy chung, son sắt của người Việt Nam.
Đất nước ta gắn với nền văn minh lúa nước từ xa xưa . Bởi vậy, giải thích nguồn cội của đất nước nhà thơ không thể không nhắc đến hình ảnh cây lúa, hạt gạo:
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng”
Hình ảnh thơ gợi cuộc sống lam lũ, tảo tần. Để làm ra hạt gạo trắng thơm, người nông dân phải đổ biết bao mồ hôi công sức một nắng hai sương. Phảibán mặt cho đất, bán lưng cho giời, phải trải qua nhiều công đoạn xay, giã, dần, sàng mới có được thành quả. Câu thơ khiến ta liên tưởng đến bài ca dao:
“Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.”
Khi định nghĩa về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa người đọc đến với hình ảnh của một đất nước không hề xa lạ. Nó chính là nơi nảy nở của tình yêu lứa đôi khi mỗi người đến tuổi trưởng thành:
“Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Ý thơ được lấy từ bài ca dao quen thuộc nói:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai…”
Tình yêu đi liền với nó là nỗi nhớ. Nỗi nhớ chính là thước đo của tình yêu . Khi yêu nhau, gần nhau người ta cũng nhớ, xa nhau thì càng thấy nhớ thương da diết, cồn cào, cháy bỏng. Hình ảnh thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng sáng tạo bài ca dao Khăn thương nhớ ai.. để đem đến cho câu thơ một cảm nhận mới mẻ về nỗi nhớ trong tình yêu.
Đất Nước trong định nghĩa của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ gắn với không gian nhỏ bé gần gũi là nơi anh đến trường, là bến nước nơi em tắm . Mà hình ảnh đất nước còn gắn với không gian rộng lớn mênh mông của rừng vàng, biển bạc:
“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
“Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Câu thơ được nhà thơ lấy cảm hứng trọn vẹn từ câu hò Bình- Trị- Thiên quen thuộc:
“Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc
Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi”
Nguyễn Khoa Điềm được sinh ra và trưởng thành trên vùng đất giàu giá trị văn hóa, thơ Nguyễn Khoa Điềm thấm đẫm hồn Huế, chính vì thấm nhuần nền văn hóa dân gian nơi chôn nhau cắt rốn nên khi định nghĩa về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm cũng đã nghĩ ngay đến câu ca dao bình dị của quê hương, xứ sở mình. Thật tự hào thay, quê hương mình lúc nào cũng trù phú, giàu đẹp “ rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu”.
Lịch sử nước ta là lịch sử của các vua hùng dựng và giữ nước. Từ xưa đến nay, mỗi người dân đất Việt luôn ý thức sâu sắc về nguồn cội của mình. Vì vậy, dù có đi đâu về đâu cũng không quên nhớ ngày giỗ tổ Hùng Vương:
“Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Cội nguồn dân tộc, gốc gác tổ tiên là điều ta không bao giờ có thể quên. Vì vậy, Nguyễn Khoa Điềm nhắc nhở mỗi chúng ta về truyền thống uống nước nhớ nguồn từ bao đời nay của dân mình. Ca dao xưa cũng từng nhắc nhở ta:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”
Từ nền văn học dân gian, nhà thơ đã khám phá ra biết bao vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của người Việt ta từ xa xưa. Đó là những con người yêu say đắm, thủy chung:
“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”
Ý thơ được lấy từ câu ca dao quen thuộc:
“Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru”
Từ ca dao, nhà thơ cũng khám phá ra vẻ đẹp của những con người biết quý trọng lối sống tình nghĩa, biết nâng niu, trân trọng những gì có được từ sự khó nhọc, gian nan:
“Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”
Ca dao xưa cũng nói về những con người như thế:
“Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”
Qua ca dao, Nguyễn Khoa Điềm cũng phát hiện ra phẩm chất bền bỉ kiên cường , quyết liệt trong chiến đấu, trong công cuộc dựng và giữ nước của cha ông ta:
“Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Bền bỉ, kiên cường , quyết liệt là những phẩm chất cần có của con người trong mọi thời kì, nhất là trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Câu thơ của thi nhân được lấy ý từ câu ca dao:
“Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què“
Như vậy có thể thấy, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng một cách sáng tạo ca dao, tục ngữ tạo nên những vần thơ thơ mượt mà đằm thắm, trữ tình, thiết tha.
Điểm thứ hai trong việc vận dụng sáng tạo chất liệu văn hoá, văn học dân gian trong đoạn trích Đất Nước là đưa truyền thuyết, truyện cổ tích vào ý thơ một cách tự nhiên.
Nguyễn Khoa Điềm không dùng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, cũng không dùng cách nói trang trọng để giải thích về nguồn cội của đất nước, mà tác giả đã chọn một cách nói dung dị nhưng thấm thía.
“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể”
Đất nước có từ “ngày xửa ngày xưa”, tức là đất nước đã có từ lâu lắm rồi. Từ trong những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết mẹ thường hay kể cho ta bên cánh võng ầu ơ. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” cũng gợi ta liên tưởng đến những câu mở đầu thường thấy trong các câu truyện cổ dân gian mang âm hưởng của những câu chuyện cổ tích, đưa ta về một thuở rất xa xưa.
Đất nước ta lớn lên cùng truyền thống đấu tranh giữ nước của dân tộc Câu thơ “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” gợi ta nghĩ đến truyền thuyết Thánh Gióng . Hình ảnh cậu bé vươn vai thành tráng sĩ nhổ tre đánh đuổi giặc Ân ra khỏi bờ cõi đã thể hiện tinh thần yêu nước kiên cường, bất khuất chống ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập dân tộc hơn bốn ngàn năm lịch sử của cha ông ta.
Đất nước còn là nơi phát sinh và phát triển của cộng đồng người Việt qua bao thế hệ. Từ thuở sơ khai, với truyền thuyết “Con Rồng cháu Tiên”, “Lạc Long Quân và Âu Cơ” đã “ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”:
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Nguyễn Khoa Điềm đã thật sáng tạo trong ý thơ. Chỉ bằng một vài hình ảnh đã gợi ra những truyền thuyết xa xưa về nguồn cội dân mình. Dân tộc ta là con rồng, cháu tiên cùng được sinh ra từ bọc trăm trứng nở ra trăm con của cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ.
Đất nước trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm thật gần gũi, quen thuộc biết bao. Nhà thơ vận dụng rộng rãi nhiều chất liệu văn học dân gian từ các câu chuyện cổ tích, truyền thuyết của nhân dân ta để cảm nhận về đất nước. Cách nói này vừa đậm đà tính dân tộc, vừa giàu tính trí tuệ mới mẻ.
Điểm thứ ba trong việc vận dụng sáng tạo chất liệu văn hoá, văn học dân gian trong đoạn trích Đất Nước là sử dụng những yếu tố của phong tục tập quán người Việt Nam để cảm nhận về đất nước.
Đất nước với Nguyễn Khoa Điềm không chỉ gắn với những câu tục ngữ, ca dao, những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết mà nó còn gắn với bề dày truyền thống văn hóa với những phong tục tập quán có từ ngàn đời xưa của cha ông ta:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
Hình ảnh miếng trầu gợi liên tưởng tới sự tíchtrầu cau, đến phong tục ăn trầu của người Việt. Nét đẹp văn hóa ấy cho đến ngày nay vẫn được bảo tồn, lưu giữ. Bởi từ xưa đối với người Việt ta miếng trầu là đầu câu chuyện, miếng trầu nên dâu nhà người. Đất nước thật lớn lao kì vĩ lại được bắt đầu từ những điều nhỏ bé bình dị biết bao!
Không chỉ có tục lệ ăn trầu, mà tục bới tóc sau đầu cũng là một nét đẹp văn hóa được nhà thơ gợi nhắc qua câu thơ:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu”
Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm gợi ta nhớ đến lời ca dao:
“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài bối rối lòng anh.”
Bới tóc sau đầu là là một thói quen đã trở thành tập tục từ ngàn đời xưa của dân ta. Hình ảnh người mẹ có bới tóc sau đầu gợi vẻ đẹp hồn hậu, giản dị, dịu dàng, nữ tính. Đây là nét đẹp văn hóa có sức sống lâu bền. Dù trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc nhưng nét đẹp ấy vẫn được giữ gìn.
Theo tiến trình phát triển của đất nước, dân tộc ta tiến lên nền văn minh lúa nước gắn với nền sản xuất nông nghiệp. Người Việt ta từ xưa đã biết xây dựng nhà cửa để che mưa, trú nắng:
“Cái kèo, cái cột thành tên”
Cái kèo, cái cột là những vật dụng quen thuộc khi dựng nhà của cha ông ta. Những vật dụng ấy đã được lấy để đặt tên cho con cái. Những cách đặt tên không cầu kì, hoa mĩ thể hiện được nếp sống hồn nhiên, giản dị của người xưa.
Hình ảnh miếng trầu giản dị hiện lên trên cái miệng móm mém nhai trầu của bà, mái tóc bới sau đầu của mẹ, cách gọi tên “cái kèo, cái cột” dân dã. Những điều tưởng chừng như bình thường ấy đã trở thành nếp sống, nét đẹp văn hóa, thuần phong mĩ tục đậm đà bản sắc Việt Nam.
Qua việc vận dụng đậm đặc, sáng tạo chất liệu văn hoá văn học dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã làm nổi bật trước mắt người đọc hình ảnh của một đất nước vừa thiêng liêng, vừa hiện hữu rõ ràng, vừa có chiều sâu văn hoá lịch sử, vừa bình dị thân quen với cuộc sống quanh ta. Chất dân gian thấm sâu vào tư duy nghệ thuật, tư tưởng cảm xúc của nhà thơ trong Đất Nước tạo nên một dấu ấn độc đáo khó phai trong lòng mỗi bạn đọc yêu văn!
3. Phân tích chất liệu văn hóa dân gian qua bài thơ Đất nước ấn tượng:
Đất nước là một chương tiêu biểu trong Trường ca Mặt đường khát vọng của tác giả Nguyễn Khoa Điềm. Một phần của chương này đã được trích giới thiệu trong chương trình dạy Ngữ văn cho học sinh lớp 12, cũng là trích đoạn được bạn đọc ở nhiều thế hệ biết đến và quen gọi là Bài thơ Đất nước. Một bài thơ có chỉnh thể của một kết cấu trữ tình trọn vẹn, sâu lắng – một cuộc tâm tình của anh với em về đất nước mình – Đất nước của nhân dân, vừa bình dị lại vừa thiêng liêng.
Với một giọng điệu tâm tình quen thuộc của văn học dân gian – kết cấu diễn ngôn được lựa chọn để kể câu chuyện về đất nước, nói như nhà nghiên cứu văn hóa Trần Đình Hượu, Nguyễn Khoa Điềm đã dẫn dắt bạn đọc “đến hiện đại từ truyền thống” để hiểu về đất nước Việt Nam mình từ chiều rộng của không gian văn hóa đến chiều sâu và bề dày của truyền thống lịch sử văn hóa, văn hiến dân tộc. Nếu văn học là sự phản ánh đời sống bằng hình tượng thì trên phương diện phản ánh đời sống văn hóa bằng các hình tượng nghệ thuật, tác giả của Đất nước đã sử dụng cả một trường văn hóa với những chất liệu dân gian, dân tộc thông qua một loạt những diễn ngôn và biểu tượng văn hóa.
Danh lam thắng cảnh là một phần của di sản văn hóa, làm nên niềm tự hào Việt Nam, bởi vậy, khắc họa khuôn mặt văn hóa dân tộc không thể không nói đến đặc điểm và vai trò của yếu tố văn hóa này. Trong Đất nước, bằng phép liệt kê có chọn lọc, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã điểm tên những địa danh văn hóa tiêu biểu của nước ta ở cả ba miền: Bắc – Trung – Nam. Mỗi địa danh được nhắc đến trong Đất nước là một địa chỉ văn hóa. Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái là hai thắng cảnh ở miền Bắc Việt Nam. Hòn Vọng Phu ở Lạng Sơn gắn liền với huyền thoại bồng con chờ chồng hóa đá của nàng Tô Thị. Hòn Trống Mái nằm trong quần thể di tích núi Trường Lệ ở Sầm Sơn, Thanh Hóa, theo tương truyền được hình hành từ sự hóa thân của hai vợ chồng. Hai thắng cảnh nổi tiếng này được tạo tác không chỉ bằng sự tài tình của tạo hóa mà còn được dệt thành từ câu chuyện tình yêu, chuyện nghĩa tình chồng vợ thủy chung, son sắt đã hóa tượng đài đá bất tử, thách thức mọi khắc nghiệt của thời gian. Còn đó vết chân ngựa Thánh Gióng để lại “trăm ao đầm” quanh chân núi Sóc Sơn (Hà Nội); là trùng điệp núi non hùng vĩ của quần thể di tích Đền Hùng với “chín mươi chín con voi” bao quanh núi Hy Cương (Phú Thọ) làm nên di tích lịch sử văn hóa và danh thắng Đền Hùng; là thắng cảnh Hạ Long với những “con cóc, con gà quê hương” mang vẻ đẹp giản dị mà độc đáo. Còn ở miền Trung là Quảng Ngãi với địa danh “Núi Bút, non Nghiên”, một thắng cảnh đẹp mà theo tương truyền gắn với tích anh học trò nghèo hiếu học được cậu ông trời (con cóc) lấy trộm bút và nghiên của trời làm phương tiện đi thi. Dấu tích của những ao hồ và núi đồi do bút rơi và nghiên mực vỡ vung tung tóe khắp nơi bên cạnh núi Kim Nhan ngày nay còn lại ở Quảng Ngãi là minh chứng cho những điềm lành mà Trời đã ban cho vùng đất Quảng Ngãi, để núi Bút, non Nghiên trở thành một biểu tượng về truyền thống hiếu học. Dòng Cửu Long hiền hòa tươi đẹp được tạo thành từ “những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”, bên cạnh các tên đất, tên làng là tên người như: Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm đều là một phần của văn hóa Nam Bộ. Với Nguyễn Khoa Điềm, trải dài trên mảnh đất văn hiến hình chữ S đâu đâu cũng ghi dấu tích “dáng hình, lối sống, ao ước ông cha” – là cái hồn của đất, của sông, của núi làm nên những huyền thoại đẹp, thổi hồn cho những ruộng đồng, gò bãi, làm tăng thêm sức hấp dẫn, giá trị của những địa danh, di tích như Vịnh Hạ Long, Hòn Trống Mái, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm… Đây là một phần của gương mặt văn hóa dân tộc, là một nét riêng của danh lam thắng cảnh Việt Nam được lý giải trong Đất nước. “Không gian mênh mông” của văn hóa nói như Nguyễn Khoa Điềm là không gian “dân mình đoàn tụ” đã hiện hữu không chỉ bằng tên đất, tên sông – cái có thực mà còn bằng cả một niềm tâm tưởng vô cùng vô tận của những hoài vọng sâu lắng từ một miền huyền thoại, truyền thuyết mà ở đó dân mình đã xây đắp, bảo vệ, gìn giữ và “hóa thân cho dáng hình xứ sở”, “làm nên Đất nước muôn đời”.
Khi nói đến đời sống và tổ chức cộng đồng người Việt truyền thống không thể tách rời đặc điểm sản xuất nông nghiệp. Do đặc điểm riêng về khí hậu và thổ nhưỡng nên về cơ bản, nước ta xét về mặt sản xuất và tổ chức sản xuất trước đây là một nước thuần nông, lực lượng lao động chủ yếu là nông dân với việc nhà nông của những người nông dân một nắng hai sương giãi dầu mưa nắng, liền tay hết “đắp đập be bờ” ngăn nước, trị thủy để gieo trồng; có được hạt lúa, củ khoai phải trải qua “xay, giã, dần, sàng”…
Những nề nếp, thói quen, tục lệ như một phần tất yếu của nếp sống là phong tục, tập quán, một trong những nét đặc trưng để nhận diện phương thức tổ chức đời sống, lối sống dân gian Việt Nam. Đây là nét văn hóa truyền thống bình dị, thân quen đã được lưu truyền trong dân gian qua nhiều thế hệ, là một phần không thể thiếu trong tâm thức và thực hành văn hóa của nhân dân từ ngàn xưa cho đến ngày nay. Có thể nói, Đất nước Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng hiện thực tâm thức văn hóa dân gian ấy rất thành công để lý giải nguồn gốc, quá trình lớn lên của dân tộc bằng nề nếp, thói quen, tục lệ – một trong những đặc sắc văn hóa người Việt. Những thực hành thường nhật như ăn trầu, búi tóc, đặt tên con trẻ, thờ cúng tổ tiên… được khơi gợi bằng “miếng trầu bây giờ bà ăn”, “tóc mẹ thì bới sau đầu”, “cái kèo cái cột thành tên”, “ngày giỗ tổ”… để rồi từ đó mở ra bao liên tưởng về cả một kho tri thức dân gian.
Trầu cau là truyện cổ trong kho tàng truyện cổ dân gian người Việt chứa đựng nghĩa nhân sinh đẹp đẽ đằng sau sự hòa quyện của trầu, cau, vôi, đó là tình anh em thắm thiết, tình vợ chồng keo sơn, tình cảm gia đình nồng ấm muôn đời được dân ta trân trọng, giữ gìn. Nhắc đến “miếng trầu bây giờ bà ăn” là gợi nhắc đến những cổ tích (Trầu cau, Tấm Cám), những ca dao mà ở đó trầu cau đã trở thành tín vật của tình yêu, hôn nhân, là “đầu câu chuyện”, là nét đẹp văn hóa truyền thống lâu đời mà hồn cốt và tinh thần của nó còn được thực hành trong đời sống người Việt cho đến nay. Với ý tưởng và nhận thức riêng về vai trò của phong tục đối với lịch sử dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm đã viết “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”. Miếng trầu, tục ăn trầu đã trở thành tín hiệu văn hóa khởi đầu cho sự ra đời của dân tộc Việt Nam, đó là sự ra đời trước tiên để hình thành diện mạo dân tộc, gắn bó với dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử từ buổi “trồng tre đánh giặc”. Nói về “tóc mẹ thì bới sau đầu” là nhắc đến tục búi tóc sau đầu – một thói quen đồng thời là một biểu hiện của quan niệm thẩm mỹ gắn với vẻ đẹp của người phụ nữ Việt truyền thống. Đặt tên cho con cũng là một phong tục xưa khá phổ biến của người Việt Nam xuất phát từ niềm tin những điều lành, điều cấm, do đó “cái kèo, cái cột” – thứ vật quen thuộc, có vai trò quan trọng trong kết cấu ngôi nhà Việt truyền thống đã được dùng để đặt tên cho người cũng là hợp lôgic với tư duy và khát vọng của người Việt: Bình yên và vững chãi, thế là đủ cho ao ước của cha mẹ về cuộc đời con trẻ, tâm lý của người Việt ta là thế, cứ đơn giản, gần gũi, nôm ma mà an lành.
Trong lòng mỗi người dân Việt, dù đi đâu, ở đâu thì ý thức về cội nguồn dòng tộc, tổ tiên sẽ luôn ngự trị. Người Việt luôn tự hào mình có nguồn gốc Lạc Hồng, cha là Rồng, mẹ là Tiên. Truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ là một trong những di sản văn hóa tinh thần của dân tộc Việt, là huyền thoại quý mà cho đến nay, dân ta vẫn luôn tự hào, thờ phụng đã được nhà thơ gợi nhắc qua câu chuyện “Lạc Long Quân và Âu Cơ/ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”, “Chim về, Rồng ở”. Cũng với nguồn gốc tông tộc ấy mà Rồng và chim Lạc là hai linh vật được tôn sùng, bái vọng trong văn hóa Việt Nam. Bái vọng và thờ cúng tổ tiên, thờ cúng ông bà, cha mẹ đã khuất là xuất phát từ cái đạo lý “Con người có tổ có tông/ Như cây có cội như sông có nguồn” hay hướng về cội nguồn với một tấm lòng thành kính lễ, “cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ” là truyền thống đạo lý tốt đẹp uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam.
Nếu như trích đoạn này có kết cấu của một mạch trữ tình suy tưởng để chiêm nghiệm về đất nước thì từ đầu cho đến kết thúc, đích của nó đã đạt đến bằng việc trả lời thành công các câu hỏi: đất nước có từ bao giờ, đất nước là gì và ai đã làm ra đất nước? Với Nguyễn Khoa Điềm, khởi đầu của đất nước là truyền thống văn hóa với những phong tục, tập quán, lối sống của nhân dân, đất nước do đó cũng là những gì gần gũi, bình dị thân thương mà thiêng liêng nhất như tuổi thơ, như tình bạn, tình yêu, gia đình, làng xóm… và nhân dân chứ không ai khác là người đã làm ra đất nước. Tư tưởng “Đất nước này là đất nước của dân” được khẳng định trong Đất nước là kết quả của những đúc kết sau nhiều suy tư, truy nguyên sâu sắc, cũng là một điều dường như đã được xác lập thống nhất, là tư tưởng xuyên suốt trong cả đoạn thơ này. Rõ ràng, nhân dân là chủ nhân của phong tục, tập quán, lối sống, là người thực hành, bảo tồn và phát huy nhưng giá trị văn hóa tốt đẹp của chính mình; không ai khác, chính nhân dân cũng lại là người hóa thân mình vào hồn sông núi để vẽ nên dáng hình đất nước. Đúng như Nguyễn Khoa Điềm viết: “Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy/ Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”, vai trò lịch sử và vai trò văn hóa của nhân dân đã được lý giải như thế trong Đất nước. Sẽ thật là thiếu nếu chúng ta nói về bản sắc văn hóa Việt Nam mà quên nhắc đến tính cách, tâm hồn con người Việt Nam. Những đặc tính: giản dị, cần cù, kiên trì trong cuộc sống, trong lao động; dũng cảm trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm, trước sau nghĩa tình chung thủy; biết quý trọng sức lao động… và đặc biệt có một tình yêu nước nồng nàn nhưng giản dị là những tính cách nổi bật của con người Việt Nam. Những nét đẹp tâm hồn và tính cách ấy của dân tộc ta đều đã được truyền tải một cách tự nhiên trong Đất nước trong từng hình ảnh, câu từ:
“Em ơi em/ Hãy nhìn rất xa/ Vào bốn nghìn năm Đất nước/ Năm tháng nào cũng người người lớp lớp/ Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta/ Cần cù làm lụng/ Khi có giặc người con trai ra trận/ Người con gái ở nhà nuôi cái cùng con/ Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh/ Nhiều người đã trở thành anh hùng… Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm/ Có nội thù thì vùng lên đánh bại’’.
Dù đặt trong bối cảnh nào của cuộc sống, trong lao động hay trong chiến đấu thì những phẩm cách sáng ngời của tinh thần và tâm hồn Việt Nam vẫn luôn hiện hữu và trở thành mạch nguồn sức mạnh, thành bản lĩnh dân tộc.
Đất nước Việt Nam – bốn chữ thiêng liêng ấy vốn là đề tài lớn của nghệ thuật, là nguồn cảm hứng bất tận trong sáng tác văn học. Nguyễn Khoa Điềm từ một góc nhìn văn hóa khai thác ở bề sâu của truyền thống văn hóa dân gian là chất liệu nghệ thuật đã thực sự thành công khi viết về đất nước. Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đem đến diện mạo Việt Nam từ nhiều chiều, từ nguồn gốc đến cách thức tổ chức đời sống, xã hội và đặc biệt, những đặc trưng về phong tục tập quán, từ đó nổi bật lên giá trị, phẩm chất, cốt cách, tâm hồn con người Việt Nam. Có thể nói, ở Đất nước có cả một kho tri thức văn hóa dân gian. Nói như Phạm Hoài Nam, sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm có “Sức liên tưởng mạnh” và khả năng “dẫn người đọc đi từ quá khứ đến tương lai, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ sách vở đến đời sống”. Ở góc nhìn văn hóa, trong sự cảm thụ trích đoạn này, người viết cho rằng Đất nước đã đem đến cho người đọc những trải nghiệm sâu sắc, thú vị về giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, từ đó càng yêu thương, gắn bó và tự hào. Đó cũng chính là những giá trị về mặt nhận thức văn hóa, thẩm mỹ văn hóa và giáo dục văn hóa của Đất nước.
THAM KHẢO THÊM: