Cảnh cho chữ trong "Chữ người tử tù" được xem là cảnh tượng chưa nay chưa từng có. Vậy cảnh tượng đó có gì đặc sắc mà đã khiến tác phẩm thành công như vậy, cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù ngắn gọn nhất:
1.1. Mở bài:
– Nguyễn Tuân là nhà văn yêu cái đẹp và luôn hướng tới. Văn chương của ông không thiếu những con người và những tình huống hoàn hảo, mà cảnh cho chữ người tử tù là một ví dụ điển hình.
– Trong tác phẩm, chữ cảnh là trung tâm của mọi giá trị nghệ thuật, nó vừa khắc họa chân dung kiêu hãnh, thơ mộng của người tù bị hành quyết, vừa thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc.
– Bối cảnh cho chữ là một cảnh “xưa nay chưa từng có”.
1.2. Thân bài:
– Huấn Cao: là người có tâm hồn phóng khoáng, thích tự do, ghét kẻ nhũng nhiễu dân. Anh còn là một nghệ sĩ tài hoa, yêu cái đẹp và luôn giữ thiên lương trong sáng. Huấn Cao cũng có nguyên tắc của mình, ông viết những nhân vật nổi tiếng nhưng chỉ dành cho những người đáng quý, không bao giờ cúi đầu trước uy quyền và tiền bạc.
– Quản ngục: người có lương, biết trọng người hiền, yêu cái đẹp nhưng lại làm nghề quản ngục. Khát khao câu chữ Huấn Cao treo trong nhà là khát vọng lớn của đời ông.
– Cảnh cho chữ diễn ra trong ngục tối.
– Trong tình huống giữa quản giáo và quản giáo, lúc đầu Huấn Cao không nhận ra tấm lòng của viên quản ngục, nhưng sau đó người tử tù không thể từ chối ước muốn chính đáng của một con người đa tài.
– Thời gian: Hoàn cảnh sáng tác diễn ra rất tự nhiên vào lúc nửa đêm, nhưng lại là thời gian cuối cùng của một người tài hoa.
– Không gian: Khung cảnh cho chữ thiêng diễn ra trong khung cảnh u ám của ngục tối. Cảnh được miêu tả trên nền đất ẩm ướt, mùi keo, chuột…
Anh ta tự nhận mình là một tử tù tử tế nhưng đàng hoàng, ở tư cách dành cho người khác ân huệ cuối cùng của mình. Người hỏi một câu trả lời kỳ quặc là người có nhiều quyền lực hơn, nhưng đã cúi đầu cảm ơn.
– Thông thường người ta chỉ sáng tác nghệ thuật ở nơi có không gian rộng rãi, trang nghiêm hoặc chí ít là nơi trong sạch, nơi có cảnh cho chữ, nơi cái ác ngự trị.
– Người nghệ sĩ sáng tạo ra tác phẩm phải thực sự thoải mái về tinh thần và thể chất trong khi Huấn Cao phải mang gông cùm xiềng xích và ngày hôm sau sẽ bị kết án tử hình.
Quản ngục có quyền ép tử tội nhưng ngược lại tử tù có quyền cho chữ hoặc không cho chữ.
1.3. Kết bài:
– Ca ngợi tấm lòng bao dung của hai nhân vật Huấn Cao và quản giáo
– Ca ngợi vẻ đẹp chiến thắng ngay cả trong những nơi tăm tối nhất.
– Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn trong con người Huấn Cao, qua đó thể hiện quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Tuân.
2. Phân tích Cảnh cho chữ hay nhất:
Nguyễn Tuân là một trong năm đại văn hào của nền văn học Việt Nam. Ông đã có những đóng góp đáng kể cho nền văn học hiện đại. Suốt cuộc đời Nguyễn Tuân luôn khát khao đi tìm cái đẹp, cái tinh hoa của đất trời để sáng tạo nên những kiệt tác văn học đặc sắc. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” trích từ “Vang bóng một thời” của ông cũng hàm chứa những vẻ đẹp đó.
Từ xa xưa, chơi chữ đã được coi là một thú tiêu khiển tao nhã của những người có học. Lối chơi chữ thể hiện hết vẻ đẹp, tài năng và trí tuệ của người viết cũng như người nghe. Bối cảnh đám cưới thường diễn ra ở những nơi trang trọng, đủ hoa để khơi dậy cảm xúc. Rồi từ đó, những nét uyển chuyển có hồn riêng ra đời. Nhưng cũng với nét chữ uyển chuyển, có hồn ấy, Nguyễn Tuân đã cho nó ra đời trong một hoàn cảnh khác, “hy hữu”. Đó là cảnh cho chữ trong tác phẩm “Chữ người tử tù” trích tập “Vang bóng một thời”.
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có nhiều đóng góp to lớn cho nền văn học nước nhà, đặc biệt là văn học chính trị. Nguyễn Tuân có nhiều tác phẩm lớn như: Một chuyến đi, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi, Sông Đà, Vang bóng một thời. Vang bóng một thời là một trong những tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Tuân, cũng là một trong những tác phẩm thành công nhất. Những truyện ngắn hay nhất của văn học Việt Nam.
Truyện ngắn “Chữ người tử tù” ban đầu có tựa đề là “Dòng chữ cuối cùng”. Đây là tác phẩm kết tinh tài năng của Nguyễn Tuân trước Cách mạng và được nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đánh giá là “tác phẩm tiệm cận sự hoàn hảo”. Nhân vật chính trong truyện ngắn này là Huấn Cao – một con người văn võ song toàn. Huấn Cao có chữ Hán viết nhanh và đẹp. Ông không chỉ có tài thư pháp mà còn có một bộ óc uyên bác. Mỗi nét chữ của ông chứa đựng cả văn hóa và quan niệm về thế giới. Người ta treo tranh ông trong nhà không chỉ để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của bức tranh mà còn để suy ngẫm những điều sâu sắc. Nhưng ” trừ tri kỷ, ít khi cho chữ. Có được chữ ông Huấn mà treo là báu vật trên đời”. Không thầy nào tài bằng nghệ thuật, thầy Huân cũng là người của trời. Tính anh thẳng thắn, dứt khoát, không vì tiền bạc hay quyền lực mà bị ép nói ra điều gì. Gặp hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm, người ta dễ liên tưởng đến vị thủ lĩnh tài ba, là anh hùng dân tộc Cao Bá Quát. Mọi người khen ngợi:
“Văn như Siêu Quát vô tiền Hán
Thi đảo Tùng Tuy thất thịnh Đường”.
Quả thật, ngay khi bước vào trại giam, vác trên vai chiếc cùm sắt to tướng, ông Huấn không những không run sợ trước những lời trách móc của tên lính áp giải mà còn lạnh lùng “gõ đầu thang xuống bậc thang”. Khi bị giam trong nhà lao, không có quản giáo, hàng ngày mang rượu thịt cho mình và đồng đội, anh vẫn bình thản đón nhận, coi đó là “tấm lòng”, thậm chí anh còn coi đó là “tấm lòng”. Quản giáo, không muốn anh ta vào phòng giam của mình một lần nữa.
Một người có tài nghệ, phẩm chất thanh cao, dũng cảm như Huấn Cao dường như chưa bao giờ chịu khuất phục trước viên quản giáo. Tuy nhiên, khi hiểu được tình cảm và sở thích cao quý của viên quản ngục, biết rằng ông ta đã liều mạng vì những thú vui cao cả, Huấn Cao đã thay đổi định kiến về một viên quản ngục, suýt chút nữa đã “mất một tấm lòng trong thiên hạ” và quyết định đưa cho chữ viên quản ngục.
Ngay trong đêm đó, từ một cai ngục khét tiếng tàn ác hàng ngày đến giờ đã khom lưng. Một tử tù bị “còng, cùm” lại làm chủ trại giam. Người tử tù ấy bị giam hãm về thể xác nhưng nhân cách thì tự do, khác hẳn với con người tưởng mình tự do nhưng lại bị trói buộc cả tâm hồn trong ngục tối tăm tối nơi cái ác trú ngụ. Trong nhà tù tăm tối ấy, đêm nay là “một cảnh tượng chưa từng thấy”. Cảnh cho chữ – cảnh hiếm thấy của thế gian diễn ra trong một nơi tối tăm và chật hẹp. Ngọn đuốc đỏ rực xua tan bóng tối. Mùi thơm từ nồi mực bốc lên làm dịu đi mùi tanh của căn phòng.
Trên nền lụa trắng vẫn còn những nếp nhăn, từng nét chữ vuông vức, xinh xắn của thầy Huấn dần hiện ra. Vì vậy, cái đẹp có thể nảy sinh trên nền cái xấu, cái ác, tội lỗi nhưng không bao giờ sống chung với cái xấu, cái ác. Vì vậy, dứt lời, Huấn Cao khuyên quản ngục đổi nghề, đổi nơi ở để giữ Thiên Lương. Vẻ đẹp hoàn mỹ của Huấn cũng là ánh sáng soi rọi thiên tài tiềm ẩn của viên quản ngục. Cảnh cho chữ không diễn ra ở nơi có ánh trăng và tuyết rơi mà là trong căn phòng tối chật chội. Nơi cái ác ngự trị là nơi cái đẹp được “khai sinh”, thăng hoa. Toàn bộ bóng tối của ngục tù đã sụp đổ, chỉ còn lại vẻ đẹp thuần khiết khí phách của Thiên Lương.
Người tử tù dù ngày mai lĩnh án tử cũng không chết mà sẽ đi vào cõi trường sinh bất tử với cái đẹp. Huấn Cao là hiện thân của cái đẹp hoàn mỹ, con người ấy chỉ có thể chết về mặt tinh thần, nhưng những tư tưởng cao đẹp của ông Huấn và những lời dạy của ông sẽ còn mãi với thế gian, sẽ theo viên quản ngục.
Truyện thành công không chỉ vì nó phê phán đúng thực trạng xã hội đương thời mà còn nhờ nét độc đáo của tình huống truyện. Truyện kể về cuộc gặp gỡ giữa hai con người hoàn toàn khác nhau. Một người là cai ngục – công cụ để trấn áp những tù nhân phục vụ tòa án, và người kia là một tử tù chống lại chế độ. Nhưng chính vẻ đẹp đó đã khiến hai con người hoàn toàn khác biệt này trở thành tri kỷ. Họ là những nghệ sĩ, biết yêu và trân trọng cái đẹp. Điểm độc đáo của truyện nằm ở chính các nhân vật. Huấn Cao – người tử tù – là nghệ sĩ sáng tạo ra cái đẹp. Quản giáo – công cụ trấn áp tội phạm của triều đình – là người có khát vọng thưởng thức cái đẹp. Toàn bộ truyện mang đậm phong cách cổ trang từ nhân vật, bối cảnh cho đến ngôn từ, ngôn ngữ của các câu.
Truyện kết thúc nhưng dư âm về vẻ đẹp kiêu sa, nhân cách cao thượng của ông Huấn vẫn còn đọng lại. Người đọc có thể hình dung một người cai ngục rời bỏ nơi đầy bất hòa để trở về quê hương. Ngày ngày, ông thong thả nhìn bức tranh ông Huân tặng được treo ngay ngắn giữa nhà mà trong lòng vẫn khắc ghi lời căn dặn của ông Huân.
3. Phân tích Cảnh cho chữ ấn tượng nhất:
Nói đến nền văn học luôn khát khao chân – thiện – mỹ, người ta thường nhắc đến Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông được coi là một trong những cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong tác phẩm của Nguyễn Tuân, nhân vật thường được miêu tả và được xem như những nghệ sĩ. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” cũng được xây dựng bởi sự nhìn nhận như vậy. Bên cạnh đó, nhà văn đã khéo léo tạo ra tình huống truyện vô cùng độc đáo. Đó chính là cảnh cho chữ trong ngục – nét độc đáo nhất của thiên sử thi này “một cảnh tượng chưa từng thấy”.
Kết thúc tác phẩm, tình huống được đẩy lên cao trào khi viên cai ngục bất ngờ nhận được công văn về việc xử tử những kẻ phản nghịch, trong đó có Huấn Cao. Chính vì vậy, khung cảnh mang ý nghĩa cởi nút, giải tỏa nỗi băn khoăn, chờ đợi của người đọc, qua đó bộc lộ những giá trị to lớn của tác phẩm.
Sau khi nhận được công văn, viên quản giáo đã thổ lộ tình cảm của mình với nhà thơ. Nghe xong câu chuyện, nhà thơ chạy xuống phòng giam của Huấn Cao để bày tỏ tình cảm của viên quản ngục. Và đêm hôm ấy, trong căn phòng chật hẹp, tối om với ánh sáng đỏ của ngọn đuốc dầu, “một cảnh tượng chẳng giống ai” đã diễn ra. Thông thường để sáng tạo nghệ thuật, người ta thường tìm đến những nơi có không gian đẹp, thoáng đãng và yên tĩnh. Nhưng trong một không gian tràn ngập bóng tối, sự bẩn thỉu của một nhà tù, sự sáng tạo nghệ thuật vẫn diễn ra. Thời gian ở đây cũng gợi cho ta nhớ đến cảnh ngộ của người tử tù. Đây có lẽ là đêm cuối cùng của người tử tù – người cho và cũng là giờ phút cuối cùng của Huấn Cao. Và trong hoàn cảnh ấy, “người tù bị còng, cùm” vẫn ung dung, bình thản “viết chữ lên tấm lụa trắng tinh”. Trong khi đó, cai ngục và nhà thơ đang di chuyển với lúm đồng tiền. Ở đây có vẻ như trật tự xã hội đang bị đảo lộn. Quản giáo phải răn đe, răn đe phạm nhân. Nhưng ở cảnh này, người tù lại trở thành người thầy, người ban phát cái đẹp.
Đây thực sự là cuộc gặp gỡ vô tiền khoáng hậu giữa Huấn Cao – người có tài viết chữ đẹp, nhanh và viên quản ngục kiêm thầy cho chữ – thích chơi chữ. Họ gặp nhau trong hoàn cảnh hết sức đặc biệt: một bên là kẻ phản bội bị kết án tử hình (Huấn Cao), một bên là quan chấp pháp. Về mặt xã hội, họ ở hai phe đối lập, nhưng về mặt nghệ thuật, họ là tri kỷ. Thế nên mới buồn vui lẫn lộn vì đây là lần đầu tiên nhưng cũng là lần cuối cùng ba người này gặp nhau. Hơn thế nữa, họ gặp được con người thật của mình, những khát khao thực sự của mình. Trong đoạn văn, tác giả đã sử dụng sự tương phản giữa sáng và tối để làm cho câu chuyện diễn ra theo sự chuyển động của ánh sáng và bóng tối. Sự hỗn loạn của nhà tù với sự tinh khiết của nền lụa trắng và nét chữ đẹp. Nhà văn đã làm nổi bật hình tượng Huấn Cao, làm nổi bật chiến thắng của ánh sáng trước bóng tối, cái đẹp trước cái xấu, cái thiện trước cái ác. Lúc bấy giờ, từ mối quan hệ đối lập lạ lùng: ngọn lửa chính nghĩa bừng cháy trong ngục tối, vẻ đẹp của tạo hóa trong chốn nhơ nhớp, ở đây, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật chủ đề. của tác phẩm: cái đẹp chiến thắng cái ác, cái thiện chiến thắng cái ác. Đó là một sự tôn vinh ấn tượng cho cái đẹp và cái thiện.
Với tiết tấu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi liên tưởng đến một thước phim quay chậm. Từng hình ảnh, từng chuyển động dần hiện ra dưới ngòi bút điện ảnh của Nguyễn Tuân: căn phòng tối và hẹp… hình ảnh người đàn ông “ba đầu chăm chú trên dải lụa trắng tinh”, hình ảnh người tù bị còng cổ, trói chân. bị xiềng xích, vẫn đang cho chữ. Trình tự miêu tả cũng thể hiện một tư tưởng rõ ràng: từ bóng tối đến ánh sáng, từ sự bẩn thỉu đến vẻ đẹp. Ngôn ngữ và hình ảnh cổ kính cũng tạo không khí cho tác phẩm. Ngôn ngữ dùng nhiều từ Hán Việt để miêu tả đồ vật là lối chơi chữ. Tác giả đã “phục dựng” văn cổ bằng bút pháp hiện đại như bút pháp hiện thực, phân tích nhân vật.
Cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” đã kết tinh tài năng, sức sáng tạo và tư tưởng độc đáo của Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã bày tỏ sự ngưỡng mộ, thương tiếc đối với những con người có tài năng, đức độ và nhân cách cao cả. Đan xen vào đó, tác giả cũng thầm bày tỏ nỗi xót xa chung cho cái đẹp chân chính, chân chính đang bị hủy hoại. Tác phẩm góp một tiếng nói đầy tính nhân văn: cuộc đời dẫu tăm tối vẫn có những tấm lòng sáng ngời.