Khổ thơ thứ 7 của bài Việt Bắc là một trong những khổ thơ hay nhất của Tố Hữu. Nó không chỉ mang giá trị nghệ thuật cao mà còn có ý nghĩa sâu sắc về tình cảm, về cuộc sống. Dưới đây là bài văn phân tích, cảm nhận về khổ thơ thứ 7 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích, cảm nhận khổ thơ thứ 7 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:
Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu đoạn trích
Thân bài:
Hai câu đầu: Khái quát nỗi nhớ.
- Hoa và người là những gì đẹp nhất của núi rừng
Việt Bắc . “Hoa” là nghệ thuật tượng trưng cho thiên nhiên và cũng là một bộ phận của thiên nhiên. - Trong nỗi nhớ của người trở về, hoa và người là hai hình ảnh đồng hiện, phản chiếu lẫn nhau. Hoa là hình ảnh đẹp nhất của thiên nhiên. Con người là sản phẩm tuyệt vời của tạo hóa. Vì vậy, khi nhớ người thì hoa hiện, khi nhớ hoa thì bóng người hiện, ca ngợi vẻ đẹp của người ở lại.
Tám câu sau: Bức tranh thiên nhiên trù phú, rực rỡ, tươi mát của Việt Bắc tượng trưng cho vẻ đẹp của bốn mùa:
- Trước hết là bức tranh mùa đông với “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”:
- Mùa đông hiện lên trong một gam màu lạnh nền xanh bao la, tĩnh lặng của rừng già gợi lên một vùng quê yên bình, tĩnh lặng, xa vắng… Trên cái nền lạnh ấy, một màu ấm áp của những “hoa chuối đỏ thắm” (ở đây có thể liên tưởng : màu đỏ của hoa chuối gợi ý nghĩa tượng trưng cho màu đỏ của cuộc cách mạng mới bùng lên như xua tan cái lạnh ngàn năm của núi rừng mùa đông).
- Tiếp đến, bức tranh mùa xuân với “Mơ nở trắng rừng” một mùa xuân tràn ngập sắc trắng của hoa mai gợi lên vẻ dịu dàng, trong sáng, thanh khiết, mơ màng của thiên nhiên. Hai từ “trắng rừng” như Đây là một hình ảnh giàu tính hiện thực nhưng lại phảng phất ý nghĩa tượng trưng: nó như gợi lên vẻ đẹp thuần khiết trong tâm hồn của người dân Việt Bắc. Có thể nói màu trắng của hoa mơ là màu đặc trưng của núi rừng Việt Bắc.
- Bức tranh mùa hè hiện lên trong nỗi nhớ của người lữ khách không chỉ có màu sắc, đường nét, ánh sáng mà còn có âm vang của tiếng ve gọi hè: “ve sầu gọi rừng…”. Tiếng ve gọi hè, hè về rừng hổ phách chuyển màu. Sống ở Việt Bắc, người ta thường có cảm giác bùi ngùi trước những hình ảnh khác lạ của rừng hổ phách: những ngày cuối xuân, nụ hoa còn lấp ló trên cây. Khi ve kêu ríu rít nở hoa vàng. Cách dùng từ “mùa thu” khá tinh tế, nhấn mạnh sự chuyển mình nhanh chóng bất ngờ của cây, lá, cho thấy sức mạnh của cơn mưa hoa vàng khi gió heo may thổi, của tiếng ve kêu gọi hè.
- Bộ tranh bốn mùa kết thúc bằng bức tranh mùa thu: một đêm thu với ánh trăng soi qua vòm lá tạo nên một khung cảnh huyền ảo. Cảnh này thích hợp để bộc lộ tình cảm, bộc lộ những tâm tư thầm kín cho đoạn cuối của những bản tình ca. Đoạn thơ gợi lên một không khí yên bình, tĩnh lặng, báo hiệu một cuộc sống thanh bình bắt đầu. Câu thơ còn gợi lên sự hài hòa giữa thiên nhiên (rừng thu) và vũ trụ (vầng trăng) với cuộc sống thanh bình vui tươi trong sự đồng điệu của những tấm lòng nhân hậu giữa người đi và người ở lại.
Hình ảnh con người Việt Nam:
- Bên cạnh nỗi nhớ thiên nhiên là nỗi nhớ con người Việt Bắc. Con người là hình ảnh luôn gắn bó với nhau và hài hòa với thiên nhiên. Sau mỗi câu thơ về hoa là một câu thơ về người. Con người gắn bó mật thiết với thiên nhiên làm cho thiên nhiên bớt hoang dã và có hồn hơn. Giữa thiên nhiên gợi cảm, con người hiện lên thật bình dị, đáng yêu và luôn gắn bó với lao động:
- Hình ảnh con người trong mùa đông hiện lên với tư thế hiên ngang. Mùa xuân gắn với những bàn tay dịu dàng, cần mẫn của những cô gái “chuốt từng sợi giang”.
- Hình ảnh “Cô gái hái măng một mình” trong mùa hè gợi sự cần cù, chịu khó, kiên nhẫn đồng thời gợi không gian bao la của núi rừng Việt Bắc.
- Nhớ người Việt Bắc, người về còn nhớ “khúc tình ca”. Đó là tâm hồn, là tình cảm của những con người cần cù, chịu khó, lặng lẽ mang trong mình những rung động, cảm xúc trước đất trời, trước cuộc đời.
Kết bài:
Đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
2. Phân tích khổ thơ thứ 7 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu hay nhất:
“Việt Bắc” một bài thơ lục bát mang tầm vóc của một bản anh hùng ca dài 150 dòng, dạt dào cảm xúc. Bài thơ ra đời vào tháng 10 năm 1054, ngày Hà Nội được giải phóng. Qua bài thơ, Tố Hữu đã thể hiện một cách nồng nàn tình yêu Việt Bắc, tình yêu cách mạng và công cuộc kháng chiến.
Đoạn thơ mười câu dưới đây, từ câu 43 đến câu 52 trong bài thơ “Việt Bắc” thể hiện rất nhiều nỗi nhớ Việt Bắc:
“Ta về mình có nhớ ta,
…
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.
Hai câu thơ đầu là lời hỏi đáp của “ta”, của người cán bộ kháng chiến trở về hỏi họ “có nhớ ta không”. Dù ngược xuôi, dù xa nhưng lòng ta vẫn lưu luyến Việt Bắc: “Ta về nhớ những hoa cùng người”. Chữ “ta” và chữ “nhớ” được viết ra để tượng trưng cho sự thủy chung. Nỗi nhớ ấy hướng về “hoa và người”, hướng về thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và con người Việt Bắc:
“Ta về, mình có nhớ ta,
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”.
Hai từ “ta mình” xuất hiện với tần suất cao trong đoạn thơ, cũng như trong hai câu thơ này đã thể hiện một cách đẹp đẽ tình yêu đôi lứa ở Việt Bắc, đồng thời tạo nên một giọng thơ dạt dào cảm xúc trở nên bồi hồi tha thiết như một bản tình ca xưa. Đó chính là giọng điệu trữ tình, đậm đà tính dân tộc trong thơ Tố Hữu.
Tám câu thơ tiếp theo, mỗi câu ghép sáu quãng tám, thể hiện nỗi nhớ cụ thể về một cảnh cụ thể, một con người cụ thể trong bốn mùa đông, xuân, hạ, thu.
Nhớ màu “xanh” của núi rừng Việt Bắc vào mùa đông, nhớ màu “đỏ tươi” của hoa chuối như ngọn lửa thắp sáng rừng xanh. Nhớ những người vượt dốc “dao gài thắt lưng” trong tư thế dũng mãnh hiên ngang trên đèo cao “nắng…”. Đồng dao của người nông dân phản ánh “nắng” rất gợi cảm:
“Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
Màu “xanh” của rừng, màu “đỏ tươi” của hoa chuối, màu lấp lánh của “ánh nắng” trong ca dao. Những gam màu đó hài hòa với nhau làm nổi bật sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của thiên nhiên Việt Bắc, của con người Việt Bắc đang làm chủ thiên nhiên và cuộc sống trong thời kỳ kháng chiến. Tố Hữu đã phát hiện ra sức mạnh tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân ta do cách mạng và kháng chiến mang lại. Lao động sản xuất đang anh dũng đứng trên “đèo cao” ngập nắng gió. Những người lính ra trận với sức mạnh vô địch của thời đại mới:
“Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”.
(“Lên Tây Bắc”)
Nhớ ngày xuân Việt Bắc là nhớ hoa mai “nở trắng rừng”. Từ “trắng” là một tính từ chỉ màu được chuyển từ loại để bổ nghĩa cho “nở trắng rừng” gợi cả một thế giới hoa mai phủ lên núi rừng Việt Bắc một màu trắng tinh khôi. Cách dùng từ tài hoa của Tố Hữu làm ta liên tưởng đến chất thơ trong sáng, hồn nhiên của Nguyễn Du trong Truyện Kiều:
“Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.
Nhớ “mơ nở trắng rừng”, nhớ cô em gái “chuốt từng sợi giang”. “Chuốt” có nghĩa là tỏa sáng trên các sợi mỏng. Bằng sự khéo léo, kiên nhẫn và tỉ mỉ, người ta có thể “chuốt từng sợi” để đan thành mũ, nón phục vụ kháng chiến, để bộ đội đi chiến dịch có “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Người đan nón mà nhà thơ nhắc đến tiêu biểu cho vẻ đẹp tài hoa, sáng tạo của người dân Việt Bắc. Mùa xuân Việt Bắc đáng nhớ:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.
Một chữ “đổ” tài tình. Tiếng ve “đổ” hối thúc ngày hè mau qua, làm cho khu rừng thêm vàng óng. Xuân Diệu cũng có câu thơ dùng từ “đổ” để gửi gắm một nỗi niềm tương tự: “Rót trời ngọc qua kẽ lá…” (Thơ tình 1938). Đây là những bài thơ nên họa nên nhạc, tạo nên một không gian nghệ thuật đẹp đẽ, vui nhộn tràn ngập âm thanh. “Cô em gái hái măng một mình” vẫn không cảm thấy đơn độc, bởi chị đang làm việc trong rừng, hái măng góp phần “nuôi bộ đội” phục vụ kháng chiến. Cô gái hái măng là một nét trẻ trung, đằm thắm trong thơ Tố Hữu.
Nhớ mùa hè và mùa thu Việt Bắc, nhớ mãi, nhớ trăng ngàn, nhớ câu hát:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.
Trăng xưa đã “vàng gieo bóng nước cây lồng bóng sân”. Trăng Việt Bắc trong thơ Bác là “vầng trăng cổ thụ in bóng lồng hoa”. Người cán bộ kháng chiến về nước nhớ trăng rừng thu Việt Bắc, trăng “soi” qua tán lá rừng xanh, trăng trong lành mát rượi mang màu “thanh bình” thơ mộng. “Ai” là đại từ nhân xưng phù phiếm, “nhớ ai” là nhớ tất cả, tất cả những người Việt Bắc trung kiên đã anh dũng hy sinh vì cách mạng và kháng chiến.
Bài thơ này tràn ngập tình yêu. Nỗi háo hức bồi hồi dường như thấm sâu vào cảnh vật và lòng người, khi người về sẽ nhớ ta, nhớ ta. Tình yêu ấy thật sâu đậm, biết bao ân tình thuỷ chung. Năm tháng sẽ qua đi, những bài hát về tình yêu thủy chung ấy sẽ mãi như một vết son đỏ in sâu vào lòng người.
Đoạn thơ mang vẻ đẹp của một bức tranh tứ bình đặc sắc, đậm đà hương vị dân tộc. Mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là mùa đông năm 1946, mùa thu tháng 10 năm 1954, thủ đô Hà Nội được giải phóng Tố Hữu cũng bày tỏ nỗi nhớ Việt Bắc qua bốn mùa đông xuân hạ thu, sau dòng chảy của lịch sử. Mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng tràn đầy sức sống: màu xanh của rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu trắng của hoa mai, màu vàng của rừng phách, màu trắng của cây xanh thanh bình. Thiên nhiên Việt Bắc trong thơ Tố Hữu đẹp hữu tình, cổ điển. Những người được nhắc đến không phải là dân câu, con tép, con canh, con đuông mà là người đi rẫy, người đan nón, cô hái măng, người đang hát những mối tình thủy chung. Tất cả đều thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Bắc: cần cù, làm chủ thiên nhiên và làm chủ cuộc sống trong lao động, kiên nhẫn, khéo léo, tài hoa, lạc quan trẻ trung, yêu đời, nhân hậu.
Giọng thơ ngọt ngào, tha thiết làm lay động tâm hồn người đọc. Nỗi nhớ được nhắc đến trong “Việt Bắc” cũng như trong bài thơ này thể hiện một nét đẹp trong phong cách thơ Tố Hữu: chất trữ tình và tính dân tộc, màu sắc cổ điển và chất hiện đại được kết hợp làm một cách hài hòa.
Hình ảnh đẹp, phong phú, gợi cảm. Một không gian nghệ thuật đầy sức sống, có đường nét, âm thanh, màu sắc, ánh sáng, kết cấu hài hòa, để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn ta như Bác Hồ đã viết: “Cảnh rừng Việt Bắc là có thật”.
Thơ chân chính “là hình tượng, hình tượng con người…, từ cái hữu hình đánh thức cái vô hình bao la” (Nguyễn Tuân). Đoạn thơ trên gợi lên trong lòng ta tình yêu Việt Bắc, niềm tự hào về đất nước và con người Việt Nam. Đoạn thơ “nhịp mãi trên một trái tim”, cho ta biết ta yêu, ta nhớ tình Việt Bắc, tình người kháng chiến.
3. Cảm nhận khổ thơ thứ 7 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu siêu hay:
Lịch sử dân tộc có nhiều trang viết bằng thơ. Một trong những trang viết tiêu biểu đó là thơ Tố Hữu nhà thơ lớn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Ta thấy trong thơ Tố Hữu chặng đường cách mạng của dân tộc. Những sự kiện, những mốc son của lịch sử Việt Nam trong suốt hơn nửa thế kỷ từ khi Đảng ra đời đến đại thắng mùa xuân năm 1975 đã được Người ghi lại bằng những vần thơ trữ tình cách mạng nồng nàn. Việt Bắc là một trong số đó. Bài thơ ghi lại sự kiện Đảng và Nhà nước chuẩn bị rời Việt Bắc về Hà Nội sau ngày kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Trong bài thơ của mình, Tố Hữu đã thể hiện tình cảm thiết tha của người đi và người ở, thể hiện tình cảm sâu sắc của tác giả về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Điều này được thể hiện rất rõ trong bài thơ:
Ta về mình có nhớ ta,
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
Đoạn thơ là một bức tranh Việt Bắc qua bốn mùa, chứa đựng một nỗi nhớ da diết cũng như thể hiện tấm lòng thủy chung của tác giả nói riêng cũng như người cán bộ nói chung đối với Việt Bắc.
Hai dòng đầu bài thơ là câu hỏi và tâm sự của người ra đi, muốn biết lòng người ở lại ra sao và bộc lộ cảm xúc của chính mình. Tám câu tiếp theo miêu tả thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng, con người Việt Bắc thân thương qua lời kể của một người khách qua đường. Mùa đông đầu tiên hiện ra với những bông hoa chuối đỏ tươi trên nền rừng xanh thẫm của những buổi chiều muộn và hình ảnh những người lao động tươi vui. Tiếp đến là sắc trắng rực rỡ của mùa xuân và hình ảnh người đan nón. Rồi mùa hè đến tràn ngập màu vàng của rừng và đầy tiếng ve kêu. Con người lại xuất hiện trong hình ảnh cô gái hái măng một mình. Kết thúc là khu rừng thu tràn ngập ánh trăng và không gian tràn ngập tiếng hát. Cứ mỗi đoạn thơ tả thiên nhiên là có một đoạn thơ tả con người, con người hòa mình vào thiên nhiên nhưng không hòa mình vào thiên nhiên và luôn trong tư thế lao động, hoạt động, thiên nhiên là nền tảng cho cuộc sống của con người, tô điểm cho con người.
Có thể nói đây là bài thơ có nhiều nghệ thuật tinh tế và cảm xúc chân thực, xứng đáng là bài thơ hay nhất Việt Bắc. Ngay từ câu mở đầu, lời nói của người nói đã có tác động đặc biệt nhờ sự giản dị chân thành. Câu thơ chỉ như một câu nói bình thường nhưng lại chân thành đến mức khiến người đối diện không khỏi xúc động. Thật đơn giản nhưng rất thấm thía, thể hiện mong muốn của người hỏi muốn biết tình cảm của đối phương dành cho mình cũng như một lời chúc: nhớ em! Như để chứng minh cho tình cảm của mình, người hỏi kể ra một loạt kỉ niệm về cảnh và người:
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Cái hay của câu thơ là hình ảnh hoa lá và con người, bởi con người cũng là một bông hoa trong vườn hoa cuộc đời. Hình ảnh tạo nên sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người, hoa và người tôn vẻ đẹp của nhau. Bốn câu sáu, tám sau gợi tả bức tranh bốn mùa với những hình ảnh, màu sắc tươi tắn, âm thanh rộn ràng. Dù là đông hay hạ, xuân hay thu, tất cả đều là những sắc màu tươi vui. Màu đỏ của hoa chuối làm mùa đông bớt lạnh. Màu trắng của hoa mai và màu vàng của rừng trúc càng tô điểm thêm vẻ rực rỡ của thiên nhiên, tạo cảm giác thanh thản, nên thơ và bình yên cho con người. Tất cả những đường nét ấy đã vẽ nên một bức tranh tứ bình đặc sắc với những ca từ mềm mại. Ở Việt Nam, nói đến tiếng ve kêu là người ta nghĩ ngay đến mùa hè. Tiếng ve bình thường nhưng lại là âm thanh tượng trưng cho mùa hè với màu vàng đặc trưng của Việt Bắc, tạo nên sự kết hợp đặc biệt giữa thính giác và thị giác, tạo nên nét riêng cho bức tranh mùa hè.
Trên cái nền thiên nhiên tươi đẹp ấy, con người hiện lên trong tư thế năng động, khỏe khoắn. Bốn câu nói về con người cũng rất tinh tế và xúc động. Tác giả đã phác họa có chọn lọc những hình ảnh mơ hồ nhưng đầy sức gợi về người dân lao động. Đó là hình ảnh người dân ra đồng, đan nón, hái măng, kín đáo hơn là ca hát trong lúc làm việc hay trong một đêm sinh hoạt văn nghệ. Hình ảnh con dao dưới nắng rất đặc trưng cho sự khỏe khoắn, tươi vui. Khi nhớ về hình ảnh những người đan nón, tác giả đã gián tiếp bày tỏ lòng biết ơn đối với những đóng góp của đồng bào Việt Bắc trong cuộc kháng chiến. Một cách diễn đạt kín đáo và tài tình! Nỗi nhớ người chị hái măng thật cảm động qua cách dùng từ “em gái” đầy trìu mến. Hơn nữa, khung cảnh thiên nhiên rực rỡ, tươi đẹp, tràn ngập âm thanh và màu sắc sống động. Cuối cùng, nỗi nhớ của câu thơ gây cho người đối thoại của nhân vật trữ tình “ta” cũng như người đọc những xúc cảm thực sự. Vì tiếng hát xuất phát từ tâm hồn và câu hát “tình chung thủy” theo chân lữ khách như một kỷ niệm, một tình yêu nhẹ nhàng bền lâu.
Tâm hồn Tố Hữu nồng nàn, mạnh mẽ nhưng cũng rất sâu sắc, thủy chung. Tố Hữu, chính trị là nguồn sống thực của thơ, ông say mê sống với lý tưởng cách mạng và với niềm tin chân chính, ông muốn đem lý tưởng đó đến với mọi người, ông thực hiện điều đó bằng tài năng thơ ca của mình. Đáng tiếc là các tập thơ sau này của ông như Ra trận, Máu và Hoa hơi khô khan, đôi chỗ nặng tính triết lý, giáo điều. Tuy nhiên, bài thơ vừa phân tích trên đây là một bằng chứng hùng hồn về tài năng sáng tạo của ông. Với tôi, bài thơ thực sự là một bước đột phá trong sáng tác của Tố Hữu, thấm đượm tinh thần dân tộc và cảm xúc chân thật.
THAM KHẢO THÊM: