Việt Bắc là khúc ca trữ tình nồng nàn, đắm say về những lẽ sống lớn, ân tình lớn của con người cách mạng. Hãy cùng chúng tôi phân tích đoạn thơ từ câu 25 đến câu 42 bài thơ Việt Bắc để tìm hiểu sâu hơn về núi rừng, con người Việt Bắc.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích, cảm nhận đoạn thơ từ câu 25 – 42 bài thơ Việt Bắc :
Mở bài:
Tố Hữu là nhà thơ lớn của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Chặng đường thơ của Tố Hữu gần như song hành với cuộc đấu tranh cách mạng của đất nước, làm nên biên niên sử thơ của ông thấm đẫm nội dung trữ tình – chính trị.
Đoạn thơ phân tích thuộc phần đầu của bài thơ Việt Bắc, từ câu 25 đến câu 42, trong đó nhà thơ thể hiện nỗi nhớ da diết của người ra đi đối với thiên nhiên, con người Việt Bắc và cuộc sống đời thường. thời chiến.
Thân bài:
a. Trong 6 câu thơ đầu (câu 25-30): Nhà thơ thể hiện nỗi nhớ da diết của người ra đi trước vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắc.
b. 12 câu tiếp theo (câu 31- 42): Một khoảng trống xuất hiện trong bức tranh núi rừng ở đoạn văn trên. Ở đoạn thơ sau, người Việt Bắc hiện lên trực tiếp qua nỗi nhớ da diết về cuộc sống kháng chiến. chiến tranh.
Kết bài:
Nêu cảm nhận về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật trong bài thơ
2. Phân tích đoạn thơ từ câu 25 – 42 bài thơ Việt Bắc hay nhất:
Nhà văn Mác-xít Prut cho rằng: Thế giới không phải được tạo ra một lần, nhưng mỗi khi một nhà độc tài được tạo ra, thế giới được tạo ra. Nghệ sĩ độc tài là người có phẩm chất độc đáo, tài năng độc đáo. Mỗi lần những nghệ sĩ này xuất hiện đều mang đến cho họ một thế giới riêng, một cách cảm nhận thế giới và con người. Là nhà thơ của chủ nghĩa lý tưởng và chủ nghĩa cộng sản, Tố Hữu xuất hiện trong làng thơ Việt Nam với một phong cách nghệ thuật độc đáo. Thơ ông trữ tình, chính luận, mang hơi hướng sử thi và cảm quan lãng mạn, thấm đượm tinh thần dân tộc. Tiêu biểu cho giọng thơ rất riêng, độc đáo của Tố Hữu phải kể đến bài thơ Việt Bắc – bài thơ kết tinh tình cảm của người dân đất Việt thắm đượm lòng yêu nước. Bài thơ được phát triển theo cấu tứ đối đáp giữa con người với con người. Trong những câu trả lời của người ra đi, có nhiều cảm giác nhớ nhung, nhớ nhung; và một trong những nỗi nhớ ấy phải có nỗi nhớ như nhớ người yêu:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi…
Việt Bắc là căn cứ địa của cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được ký kết. Hòa bình lập lại, miền Bắc trút bỏ gánh nặng, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tháng 10 năm 1954, Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về Hà Nội, những người kháng chiến (trong đó có Tố Hữu) từ căn cứ miền núi về miền xuôi chia tay Việt Bắc và căn cứ địa cách mạng trong cuộc kháng chiến. . Nhân sự kiện lịch sử đó, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Bài thơ “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ ca chống Pháp.
Bài thơ Việt Bắc được phát triển một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn giữa con người với con người. Những câu hỏi khơi gợi của người ở lại đã khơi dậy bao mùa hè nhớ thương. Kỉ niệm nối liền kỉ niệm, kỉ niệm gọi kỉ niệm. Tất cả giật mình tỉnh giấc và chìm trong dòng cảm xúc dâng trào tưởng chừng không bao giờ dứt. Nối những kỉ niệm, kỉ niệm ấy là sợi dây kí ức, sợi dây yêu thương. Chỉ riêng trong câu thơ 8 câu này, từ “nhớ” đã bốn lần gửi gắm trong lòng người ra đi, nỗi nhớ này chưa qua thì nỗi nhớ kia đã về như sóng vỗ nhè nhẹ. Mỗi khi nỗi nhớ rung lên là bao mùa nhớ ùa về, bao ân tình bồi đắp. Có thể nói nỗi nhớ đã trở thành điệp khúc, sức hấp dẫn cuốn hút mọi nỗi nhớ.
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn
(Chế Lan Viên, Tiếng hát con tàu)
Chia tay mảnh đất ta từng gắn bó ai chẳng nhớ, thương. Tuy nhiên, không có nhà thơ nào mang trong mình nỗi nhớ da diết, khắc khoải, cháy bỏng khi chiến đấu ở chiến khu Việt Bắc: “Nhớ gì bằng nhớ người yêu”. Một dòng thơ hai lần lược bỏ từ “nhớ”. Nỗi nhớ cứ ám ảnh tâm trí con người ta đến mức không thể nào kìm lại được. Lời ca phát ra với nhịp điệu rất đặc biệt, nửa hỏi nửa cảm thán, gây ấn tượng, ám ảnh cho người đọc. “Như nhớ người yêu” là hình ảnh so sánh lãng mạn, giàu cảm xúc. Nỗi nhớ Việt Bắc được cảm nhận như nỗi nhớ con người. Đôi khi hoang mang, ngơ ngác; có khi tắm, nôn, uống thuốc bổ, nôn. Khi đã giải quyết xong, khi lại thấy đau lòng. Nỗi nhớ khi chia tay Việt Bắc không chứa đựng hết những cảm xúc đó. Nỗi nhớ da diết, da diết, tha thiết. Với hình ảnh so sánh này, Tố Hữu thực sự là người yêu tha thiết trước Việt Bắc, trước đồng bào cả nước. Cùng với những câu thơ “Ta nhớ em về ta – Gió mười năm nồng nàn, áo tang chia ly – Nắm tay nhau biết nói gì hôm nay”, câu tứ “Nhớ vật như nhớ người”. tình yêu làm cho bài thơ Việt Bắc trở thành bài tình ca hàng đầu trong thơ ca Cách mạng. Quả không sai khi Xuân Diệu nhận xét: Tố Hữu đã đưa thơ chính trị vào thơ chan chứa tình yêu. Nghiên cứu bài thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu”, ta chợt hiểu rằng, cấu trúc đối đáp và cách gọi “ta – ta” ở Việt Bắc không đơn thuần là một hình thức sáng tạo, đó là một câu chuyện, ngôn ngữ, tình cảm giữa người cán bộ cách mạng với đồng bào ở chiến khu tha thiết, thiết tha như tình yêu đôi lứa, đến nỗi nhà thơ phải tìm cách thể hiện như thế.
Chảy về trong nỗi nhớ niềm thương là cảnh sắc Việt Bắc thơ mộng hiền hòa:
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khó cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa, bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Những câu thơ như một bức tranh gợi lên cảnh rừng Việt Bắc thơ mộng, hữu tình. Có những đêm trăng huyền ảo, có ánh trăng le lói trên đỉnh núi, có ánh nắng chiếu xuống cánh đồng và hình ảnh những ngôi nhà, xóm làng thấp thoáng trong sương khói bồng bềnh. Không tả chi tiết, Tố Hữu chỉ đập phá, khiêu khích. Tuy nhiên, đối với những người liên quan, nó cũng đủ khiến bạn cảm thấy lo lắng và hồi hộp. Xen lẫn với vẻ đẹp bình dị, thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắc là hình ảnh con người Việt Bắc rất đỗi thân thương: Đêm khuya bên bếp lửa người thương đi về. Hình ảnh thơ miêu tả tinh tế, dũng cảm, chịu thương, chịu khó của những cô gái nuôi quân ở chiến khu Việt Bắc. Bất chấp khó khăn, gian khổ, các thiếu nữ miền Bắc vẫn phải dậy từ sáng sớm để nâng điểm chính thức. Hình ảnh bếp lửa gợi lên những cuộc đoàn tụ đầm ấm, ấm áp tình quân dân. Tình quân dân, cách mạng mang không khí ấm áp, thân tình như tình gia đình. Cách nói “người yêu” khéo léo, khiêu khích, chứa chan tình cảm nhẹ nhàng nhưng nồng nàn, yêu thương. Có lẽ trong lòng nhà thơ đã yêu một cô gái Việt Bắc đã hi sinh vì Cách mạng.
Kết thúc khổ thơ, cảm xúc trào ra bao trùm cả núi rừng Việt Bác. Những kỉ niệm chung và riêng đan xen, hiện ra trong trí tưởng tượng của người lữ khách:
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi
Những đồi tre ngút ngàn, những dòng suối mát lành, dòng sông hiền hòa, tất cả như xoáy sâu vào nỗi nhớ của người trở về. Đắm mình trong dòng sông, núi rừng, bờ tre là một miền kí ức, một mùa yêu thương. Những cái tên: Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê có lẽ không chỉ là địa danh mà còn chất chứa biết bao kỉ niệm xúc động. Nỗi nhớ da diết, ngọt ngào đã trở thành những kỉ niệm khó phai trong lòng lữ khách. Biết bao cảm xúc, ngọt ngào man dại được chất chứa trong hai từ “đắng, ngọt” và dấu chấm lửng cuối dòng. Người ra đi muốn nhắn gửi đến người ở lại rằng người về sẽ không quên một kỷ niệm, một kỷ niệm nào.
Có thể thấy, đoạn thơ đã thể hiện nỗi nhớ da diết của người rời xa Việt Bắc, tấm lòng chân thành của người cán bộ kháng chiến với Việt Bắc qua nhịp điệu câu thơ uyển chuyển, uyển chuyển; Hình ảnh giản dị, gợi cảm, bài thơ đã tạo nên sức hấp dẫn đối với người đọc. Đọc bài thơ ta cảm nhận được một tình yêu thương con người vô hạn.
3. Cảm nhận đoạn thơ từ câu 25 đến câu 42 bài thơ Việt Bắc:
3.1. Nỗi nhớ da diết của người ra đi trước vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắc (câu 25-30):
Mở đầu bài thơ, nhà thơ bày tỏ nỗi nhớ da diết của người ra đi trước vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắc. Cả ba cặp câu lục bát đều mở đầu bằng từ “nhớ” tha thiết. Sắc thái và mức độ của nỗi nhớ được miêu tả qua phép so sánh ngọt ngào, thấm thía: “Nhớ gì bằng nhớ người yêu”. “Nhớ người yêu” là một nỗi nhớ ám ảnh, thường trực, day dứt, đau đớn, một nỗi nhớ có khi mãnh liệt đến mức phi lý như Xuân Diệu đã nói:
Uống xong lại khát, là tình
Gặp rồi lại nhớ, là mình với ta”
Đó là nỗi nhớ khiến chính Tố Hữu phải ngạc nhiên:
“Lạ chưa, vẫn ở bên em
Mà anh vẫn nhớ, vẫn thèm gặp em.
Có thể coi đây là so sánh thể hiện nỗi nhớ con người đặc sắc và mãnh liệt nhất. Qua sự so sánh ấy, Tố Hữu đã thể hiện tình cảm, nỗi nhớ da diết đối với mảnh đất và con người Tây Bắc.
Chính sự liên tưởng ngọt ngào ấy với tình yêu đã tạo nên những hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc sau đây cũng tỏa hương thơm của tình yêu. Mỗi khung cảnh Việt Bắc ở mọi thời gian, không gian cứ hiện về trong nỗi nhớ của người ra đi. Việt Bắc khi mơ màng với vầng trăng bạc chập chờn đỉnh núi, khi ấm áp mờ ảo trong “nắng đất”, có khi mơ hồ huyền ảo trong “khói làng”, và nhất là luôn gửi lời cảm ơn đến bàn chân. hoàn thành vì tình yêu tài tình với hình ảnh con người khi “sớm tàn lửa đốt lá yêu”. Nếu ở câu thơ đầu, người Việt Bắc chỉ hiện ra trong so sánh với nỗi nhớ “nhớ người thương” thì với câu thơ này, họ đã thực sự trở thành “người thương” trong lòng người qua đường. Những cảnh vật ở Việt Bắc dù có tên như Ngòi Thia, sông Đáy, kênh nhà Lê hay không có tên như “bờ tre”… đều in đậm trong nỗi nhớ của người ra đi. Để ngoài trời, dù nước có dâng cao cũng có lúc “no”. Từ “nhớ” và cụm từ “nhớ từng” được lặp lại nhiều lần trong bài thơ thể hiện niềm mong mỏi của người lữ khách về tất cả những gì thuộc về Việt Bắc.
3.2. Hình ảnh con người Việt Bắc trong những hoài niệm xúc động về kháng chiến (câu 31-42):
Bầu trời xuất hiện trong bức tranh núi rừng ở đoạn văn trên thì ở đoạn thơ sau, người Việt Bắc trực tiếp hiện ra qua những kỉ niệm cảm động về cuộc sống thường nhật thời kháng chiến.
Như để trả lời câu hỏi tha thiết của người dân Việt Bắc: “Có nhớ ngày anh đi”, người ra đi khẳng định: “Anh có nhớ ngày anh đi”, và ngay sau đó là lời giải thích. , Trân trọng vì cội nguồn của nỗi nhớ: Họ đã bên nhau “mười năm ấy”, từ “khi đánh Nhật, chống Việt Minh” đến những năm kháng chiến chống Pháp đã kề vai sát cánh, đoàn kết. . Đồng cam cộng khổ, đã chia sẻ biết bao đắng cay ngọt bùi, ngày tháng đã tạo nên những ràng buộc, định kiến và cả tình yêu. Suy cho cùng, đó chính là những nguyên nhân làm nên nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại.
Sau một chữ “yêu” của trái tim, quá khứ hiện ra với cả thời gian và tình cảm:
“Thương nhau chia củ sắn lùi”
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”
“Sắn lùi”, “bát cơm chia đôi”, “tu sĩ” là những hình ảnh cụ thể, chân thực thể hiện sự gian khổ, thiếu thốn của người tham gia kháng chiến. Đứng trước cuộc kháng chiến không chỉ có giặc mà còn có đói, rét. Nhân dân Việt Bắc và những người lính kháng chiến đã vượt qua khó khăn, thử thách, gian khổ bằng sức mạnh của tình yêu thương. Các động từ “sẻ”, “thích” đã thể hiện tình cảm gắn bó giữa người dân Việt Bắc với người kháng chiến. Tình yêu thương, sự sẻ chia sưởi ấm trái tim các em, tiếp thêm sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng. Đó cũng là cội nguồn sâu xa nhất của nỗi nhớ và lòng trung thành.
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Đoạn thơ miêu tả một hình ảnh cụ thể, quen thuộc trong đời sống thường nhật của người dân Việt Bắc: mẹ địu con đi làm nương, đi phụ hồ. Nỗi xót xa liên tiếp của Hải Thanh trong cụm từ “nắng cháy” không chỉ gợi một tà áo nắng, gợi hình ảnh những tia nắng, Bi chang làm lưng người rực lửa mà còn gợi cả câu thơ như điên dại. tha thiết xót thương. Đoạn thơ sau miêu tả sự vất vả của người mẹ Việt Bắc qua ba động từ: “cõng… lên… bẻ”, nhưng kết quả đổi lại chỉ là những “cục ngô” bé nhỏ, nhỏ nhoi. Sự đối lập giữa công việc và kết quả cho thấy những cơ cực của con người, đồng thời làm tăng thêm cả nỗi xót xa và sự ngưỡng mộ trong lòng người ra đi.
Người đã khuất không chỉ nhớ về những hình ảnh nghèo khó hay gian khổ mà cuộc sống của người kháng chiến còn hiện lên trong những kỉ niệm vui vẻ, đẹp đẽ và thân thương. Hoài niệm về những “lớp học i tờ” – hình ảnh xúc động của phong trào bình dân học vụ xóa nạn mù chữ trong những ngày đầu kháng chiến; Hình ảnh ấy gợi lên những nét chữ ngọng nghịu, nét chữ lang thang, những lời say sưa của người dân khi học chữ của cách mạng, của Bác Hồ, của những lớp người tranh thủ thời gian lao động thời chiến. Duel: “Chớ để ý lớp i tờ”. Nỗi nhớ còn hướng về những đêm tiệc đầm ấm giữa quân dân Việt Bắc với cán bộ kháng chiến, với âm hưởng tha thiết của “tiếng hát của núi rừng”, với những tình cảm của “sương cỏ sáng trong”:
“Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”
Những biểu tượng bình dị, quen thuộc của cuộc sống nơi núi rừng như tiếng “gục kêu trưa chiều”, tiếng “chày cối đêm khuya”, âm thanh xa xăm vang vọng, những âm thanh này đều gợi cảm giác. Cảm giác vừa êm đềm, vừa thể hiện tình cảm sâu nặng, nỗi nhớ da diết của người ra đi với cuộc sống và con người ở chiến khu Việt Bắc.
Bài thơ mang giọng điệu trữ tình đằm thắm, vừa như lời ru êm dịu của dân ca, vừa như âm hưởng ngọt ngào của tình ca. Toàn bộ bài thơ là nỗi nhớ về bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, nên thơ của Việt Bắc, về những sinh hoạt thường ngày trong cuộc sống, về sự gắn bó thân thiết, đồng cam cộng khổ giữa đồng bào Việt Bắc với bộ đội, cán bộ. trong những năm đó là thời gian thiếu sức đề kháng. Cuộc sống kháng chiến hiện lên trong kí ức sâu sắc của những người lính lừa đảo đã cùng nhau chia sẻ vui buồn, cùng gánh vác nhiệm vụ, cùng nhau vượt qua thử thách, để rồi khi xa cách, tình bạn càng sâu đậm, nỗi nhớ càng tha thiết.
THAM KHẢO THÊM: