Huy Cận là một nhà thơ nổi tiếng với tác phẩm Tràng Giang. Trong bài thơ này, ông thể hiện tâm trạng buồn bã, cô đơn và ưu tư. Những cảm xúc này bắt nguồn từ sự gắn bó mạnh mẽ với quê hương và nỗi đau khi chứng kiến sự suy tàn của đất nước.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý cái tôi trữ tình trong bài Tràng Giang
1.1. Mở bài:
-
Thơ Huy Cận luôn chứa đựng nỗi buồn về đất nước, hồn thơ luôn cô đơn.
-
Tình trạng buồn bã và ám ảnh không gian hiện rõ trong bài thơ Tràng giang.
1.2. Thân bài:
-
Giới thiệu tác phẩm Tràng giang của Huy Cận
-
Tràng giang trong tập Lửa thiêng, lấy cảm hứng từ sông Hồng và thơ Đường
-
Cái tôi trữ tình của nhân vật chính
-
Nhan đề “Tràng giang” gợi lên không gian rộng lớn và nỗi buồn của người thi sĩ
-
“Tràng giang” chỉ mọi con sông ở Việt Nam
-
Lời đề từ mở ra cảm xúc chủ đạo của bài thơ về không gian rộng lớn và cảm xúc bâng khuâng của một hồn thơ cô độc giữa sông nước.
– Khổ thơ 1:
-
Nỗi buồn của Huy Cận không quá mãnh liệt, mà êm đềm như sóng nhỏ trên tràng giang, tuần hoàn một cách “buồn điệp điệp”.
-
Trong thơ của Huy Cận, hình ảnh thuyền nước thường được dùng để thể hiện nỗi buồn chia ly và tan tác, “sầu trăm ngả”.
-
Hình ảnh củi khô là một ẩn dụ hiện đại cho cuộc đời lạc lõng, không có sức nặng giữa những đợt sóng đời.
– Khổ thơ 2:
-
Huy Cận tìm kiếm sự ấm áp từ một cái nhìn xa hơn, rộng hơn, nhưng cảnh sắc vật trơ trọi và những cơn gió lạnh khiến tâm hồn thi nhân thêm sầu muộn, cô đơn. Tiếng chợ chiều của làng xa càng làm không gian trở nên vắng vẻ, tác giả trước cảnh sông nước bao la cảm thấy cô đơn, lẻ loi. “Nắng xuống – trời lên sâu chót vót, sông dài – trời rộng – bến cô liêu” nhấn mạnh sự xa cách của trời đất, sông bến bằng những tiểu đối mới lạ, tạo ra cảm giác rằng mọi thứ trên vũ trụ này đều cách xa nhau, tương tự như cái tâm hồn đơn độc của nhân vật trữ tình.
– Khổ thơ 3:
-
“Bèo” trong thơ của Huy Cận có thêm một ý nghĩa khác, chỉ sự buông xuôi chấp nhận của những con người lênh đênh, bỏ mặc cho dòng nước đẩy đưa.
-
Huy Cận càng thêm cô đơn khi tìm kiếm “chuyến đò ngang” mà không thấy, chỉ thấy không gian mở ra với “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.
– Khổ thơ 4:
-
Khung cảnh vô tận của vũ trụ càng làm tâm hồn thi nhân càng trở nên bơ vơ, lạc lõng hơn.
-
Hình ảnh cánh chim nhỏ như tượng trưng cho tâm hồn thi sĩ, mong muốn tìm chốn bình yên trong cảnh khốn khó.
-
Từ hoạt cảnh đó, nỗi nhớ quê hương tha thiết lại tràn về, là nỗi buồn chung của cả một thế hệ.
-
Thi nhân càng nghĩ lại càng thấy đau xót, chán chường và bất lực trước thời đại.
1.3. Kết bài:
Trong bài thơ, tôi được miêu tả như một cái tôi cô độc, mang những nỗi sầu, cảm giác bất lực và bế tắc trước những đau đớn của quê hương. Huy Cận, một thi nhân yêu quê hương và đất nước, cũng phải đối mặt với tình trạng suy tàn và rối ren của đất nước, mà chẳng thể làm gì để khắc phục.
2. Phân tích cái tôi trữ tình trong bài Tràng giang của Huy Cận hay nhất:
Xuân Diệu và Huy Cận là hai nhà thơ lớn của phong trào thơ mới và văn học Việt Nam hiện đại. Mỗi nhà thơ có một nỗi ám ảnh riêng về cuộc đời. Xuân Diệu yêu thương cuộc sống đầy rạo rực, cháy bỏng, trong khi Huy Cận luôn chất chứa những nỗi buồn thế sự và cái tôi trữ tình buồn bã, đầy ám ảnh không gian. Bài thơ Tràng giang của Huy Cận đã đưa tên tuổi ông vụt sáng thành một trong những gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ mới trong giai đoạn 1932-1941.
Huy Cận (1919-2005) là một chính khách và nhà thơ phong trào Thơ mới. Thơ của ông trước Cách mạng thường mang nỗi buồn trữ tình trước cuộc sống phức tạp, còn thơ sau đó vui tươi lạc quan, ca ngợi vẻ đẹp của quê hương, đất nước, con người và thiên nhiên. Tập Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Trời mỗi ngày lại sáng là những tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ của ông.
Tràng giang trong tập Lửa thiêng của Huy Cận kết hợp giữa cảnh sóng nước sông Hồng với tâm trạng trữ tình đầy sầu thương của nhà thơ. Phong cách của ông đã ảnh hưởng đến nhiều nhà thơ mới. Bài thơ thể hiện những nỗi lòng về cuộc đời, kiếp người bơ vơ và tình yêu quê hương đất nước.
Trong “Tràng giang”, tác giả thể hiện một cái tôi trữ tình, là tâm hồn cô đơn lạc lõng của một thanh niên trẻ đa sầu đa cảm khi đối mặt với thiên nhiên rộng lớn, con sông Hồng và bầu trời bao la. Tên gọi “Tràng giang” chỉ chung tất cả những con sông chảy trôi trên mảnh đất hình chữ S của Việt Nam, tạo nên một không gian vũ trụ bao la và cảm giác cô đơn, u sầu trong tâm hồn tác giả. Cảm xúc và suy nghĩ của tác giả đại diện cho tâm trạng chung của thế hệ trẻ Việt Nam lúc bấy giờ, đó là cảm giác lạc lõng, mất điểm tựa mặc dù sống trong quê hương yêu dấu, vì sự bất lực trước thời cuộc và nỗi đau nước mất nhà tan.
Lời đề “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” kết hợp với nhan đề để viết về không gian vô tận mang tính vũ trụ, nơi cái tôi cá thể trỗi dậy và hiện rõ ra, những cảm xúc bâng khuâng, nhớ vô định hình của một hồn thơ cô độc giữa trời đất bao la, trước cái lạnh lẽo mà sông nước mang đến.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Tác giả miêu tả nỗi buồn của thi nhân bằng cách sử dụng hình ảnh con sông và thuyền, tạo ra một cảnh tượng u buồn và cô đơn. Điều này thể hiện sự lạc lõng và bất lực của tác giả trước cuộc đời. Hình ảnh “Củi một cành khô lạc mấy dòng” cũng tạo ra một hình ảnh hiện đại về sự đau khổ của con người giữa sự đẩy đưa của cuộc đời.
Nếu nhìn kỹ, ta sẽ thấy rằng Huy Cận đang cô đơn và lạc lõng giữa khung cảnh sông nước. Vì vậy, ông quyết định tìm kiếm một khung cảnh mới, nơi có thể tìm thấy sự ấm áp và thoải mái hơn. Ông chọn một địa điểm xa hơn, rộng hơn, nơi có thể thấy được rất nhiều vẻ đẹp thiên nhiên khác nhau. Điều này giúp ông cảm thấy tươi vui và cảm nhận được sự sống động của thế giới xung quanh. Vì vậy, ông cảm thấy hạnh phúc hơn và có thêm năng lượng để tiếp tục cuộc hành trình của mình.
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Huy Cận thấy rất thất vọng khi xung quanh là một không gian trống rỗng và lạnh lẽo. Những tiếng vọng từ làng xa khiến cho thi nhân cảm thấy cô đơn và buồn tênh hơn. Trong sự im lặng đáng sợ, câu thơ của ông tô đậm sự tĩnh lặng của không gian. Ngược lại, sự ồn ào náo nhiệt của làng xa khiến cho ông thấy mình càng cô đơn hơn. Với “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót/Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”, ông đã nhấn mạnh sự xa cách của mọi thứ trong vũ trụ này, dường như tất cả đều lẻ bóng và xa cách nhau, tương tự như tâm hồn của ông.
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Trong khổ thơ thứ ba, tác giả miêu tả sự cô đơn và lạnh lẽo trong tâm hồn của mình bằng hình ảnh “bèo”. Tác giả không thấy niềm hy vọng trong cảnh sắc thiên nhiên, và cảm thấy cô đơn hơn khi không tìm thấy sự ủng hộ hay niềm tin nào từ bất kỳ nguồn nào.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Trong bài thơ, tác giả miêu tả vẻ đẹp của khung cảnh vũ trụ với mây và núi. Tầng mây chồng lên nhau, ôm lấy những ngọn núi cao chót vót, tạo thành khung cảnh kỳ vĩ. Trong bối cảnh đó, tác giả đặt một con chim nhỏ bé, cô đơn bay tung cánh. Con chim này được coi là biểu tượng cho sự cô đơn trong thi văn. Tác giả cảm thấy buồn khi nhớ về quê hương. Cảm xúc này thể hiện một nỗi đau chung của cả một thế hệ, niềm suy tưởng về một đất nước mất nước và chịu cảnh rối ren. Tác giả càng suy nghĩ càng thấy đau xót, chán chường, và bất lực trước thời đại.
3. Phân tích cái tôi trữ tình trong bài Tràng giang của Huy Cận chọn lọc:
Huy Cận là một nhà thơ được gọi là “Người gọi dậy cái hồn buồn của Đông Á”. Ông đã khơi dậy mạch sầu của hơn mấy ngàn năm trong cõi đất này với tâm hồn đa sầu đa cảm của mình suốt chặng đường sáng tác thơ ca trước Cách mạng. Bài thơ Tràng giang trong tập “Lửa thiêng” (1940) là bài thơ nổi tiếng nhất của ông, nơi ông thể hiện tôi trữ tình đầy đủ. Bài thơ này được lấy cảm hứng từ cảm giác buồn bã, cô đơn của nhà thơ Canh nông trước cảnh sóng nước sông Hồng mênh mang. Từ đó, nỗi buồn của thi nhân trải dài và lan tỏa khắp mọi nơi trong từng khổ thơ.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Nhà thơ muốn tìm những sự vật để khắc khoải nỗi bâng khuâng trước khung cảnh trời rộng, sông dài. Nhưng ngoại cảnh lại hiện lên với sóng gợn, thuyền xuôi, củi lạc quá nhỏ bé, đối lập với một tràng giang mênh mông, rộng lớn. Đoạn thơ có quá nhiều nỗi sầu. Có con sóng gợn nhỏ, lăn tăn nhưng được nhân hóa buồn điệp điệp như thể sóng lòng buồn bã đã lan tỏa khắp trên mặt sông. Có con thuyền nhưng lại chẳng hề gắn kết với nước, từ láy song song như càng đẩy nó tự buông trôi, phó mặc tạo ra mối sầu trăm ngả. Củi một cành khô là hình ảnh hiện đại, tuy nhỏ bé và lạc lõng. Nỗi sầu cô đơn đã đẩy cao hơn thành sự bơ vơ, trơ trọi của một kiếp người trôi nổi, bấp bênh.
Cố tìm kiếm xa hơn, rộng hơn để khỏa lấp cái điệu hồn mong manh. Nhưng như Hoài Thanh nói, càng sâu càng lạnh, tôi choáng ngợp trước không gian vô tận.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu.
Trong bài thơ có tên “Tràng Giang” của Huy Cận, cảnh vật được miêu tả không ấm áp với cồn nhỏ và làng xa lơ thơ, đìu hiu. Tiếng vãn chợ chiều xa xôi, ảm đạm, và không gian vắng lặng. Thi nhân cảm thấy cô đơn và buồn bã trong không gian đó. Tuy nhiên, các yếu tố về ánh sáng và không gian của vũ trụ được lồng ghép vào bài thơ. Nắng và trời đẩy ngược nhau tạo thành một chiều kích chưa từng có – sâu chót vót. Tất cả các yếu tố này được miêu tả trong không gian vũ trụ bao la. Mặc dù bến cô liêu trống trải, nỗi buồn không thể giấu giếm.
Và đâu đó trên tràng giang lại bất chợt hiện ra:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Huy Cận sử dụng hình ảnh hàng bèo trong Tràng giang để miêu tả nỗi sầu thương của một thế hệ nhà thơ trong thời buổi đất nước đã mất tự do. Bèo dạt về đâu? Nỗi cô đơn khiến ta cảm thấy tuyệt vọng, bế tắc. Sự xa cách giữa con người và thiên nhiên làm ta cảm thấy lặng lẽ nhưng thực chất là ngậm ngùi, xót xa.
Thường được miêu tả là cô đơn và buồn bã, cái tôi trong thơ mới chỉ thực sự được thấm thía khi đọc tới Tràng giang cảm. Bài thơ tràn đầy sắc thái cô đơn và u sầu, kéo dài suốt tác phẩm.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Khung cảnh vẫn rực rỡ, nhưng không thể che giấu cảm giác cô đơn. Trong không gian mênh mông, chỉ có một con chim nhỏ, trơ trọi giữa bầu trời chiều. Bầu trời đầy mây làm cho khung cảnh thêm u uất. Nhà thơ Huy Cận đã thể hiện được nỗi buồn bã và cô đơn của một thi nhân, nhưng cũng như một trọng lực đè nén lên toàn bộ thế giới.
Bài thơ Tràng Giang của Huy Cận chủ yếu miêu tả cảm giác cô đơn và buồn bã, nhưng cũng truyền tải tình yêu đất nước đầy tha thiết. Tác giả sử dụng cảnh vật, thiên nhiên để gợi lên cảm xúc về đất nước. Bài thơ không chỉ là tượng trưng, ước lệ, mà còn chứa đựng những thứ chân thực đến tầm thường. Huy Cận đã miêu tả những sự vật đơn giản để khiến người đọc yêu quý đất nước hơn bao giờ hết. Tình yêu quê hương trong bài thơ đã được nâng lên mang tầm triết lí.