Phân tích các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị xử lý như thế nào theo quy định của pháp luật cạnh tranh?
Hiện nay, với xu thế khu vực hóa và khu vực hóa, nền kinh tế thị tường đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển luôn tìm mọi cách để giành sự quan tâm của khách hàng với doanh nghiệp của mình bằng việc chiếm ưu thế về thị phần trên thị trường liên quan. Trong quá trình giành sự quan tâm của khách hàng đó, doanh nghiệp được tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật; nhà nước bảo hộ quyền cạnh tranh hợp pháp trong kinh doanh. Chỉ những doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh của mình mà thực hiện nhanh hành vi không phù hợp với các quy định của pháp luật mới bị cấm.
Đối tượng mà các hành vi này hướng đến là đối thủ cạnh tranh. Những hành vi lạm dụng này có thể không đem lại lợi ích vật chất trực tiếp nhưng tạo cơ hội cho doanh nghiệp củng cố địa vị bằng cách loại bỏ đối thủ làm giảm bớt sức ép cạnh tranh, đồng thời làm mất đi cơ hội có được sự lựa chọn trong giao dịch trên thị trường liên quan. Điều 13 Luật cạnh tranh năm 2018 đã liệt kê cụ thể 6 hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và bị pháp luật cấm. Cụ thể:
Thứ nhất, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh.Hành vi này là việc doanh nghiệp bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá thành toàn bộ để thu hút khách hàng và gây khó khăn cho những doanh nghiệp cùng kinh doanh mặt hàng hoặc cung ứng cùng một loại dịch vụ.
Theo đó, cơ quan quản lý thị trường chỉ cần xác định và tính toán tất cả các chi phí đã được doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất, kinh doanh sản phẩm và giá bán thực tế của chúng rồi đem so sánh với nhau; nếu hành vi bán hàng, cung ứng dịch vụ với mức giá gây lỗ (thấp hơn tổng các các chị phí: chi phí cấu thành giá thành sản xuất hàng hóa, dịch vụ; chi phí lưu thông hàng hóa, dịch vụ) thì mặc nhiên sẽ được coi là định giá hủy diệt nếu doanh nghiệp thực hiện hành vi có quyền lực thị trường và hành vi đó không thuộc những trường hợp đặc biệt được quy định tại Nghị định 35/2020/NĐ-CP.
Từ quy định trên, khi điều tra về hành vi vi cơ quan có thẩm quyền xác định và so sánh giữa giá bán trên thực tế và giá thành toàn bộ của cùng một sản phẩm thì việc xác định giá bán hàng hóa sẽ đơn giản nếu doanh nghiệp bán toàn bộ sản phẩm ở cùng một khâu phân phối ( chỉ bán lẻ hoặc chỉ bán sỉ) và sẽ gặp khó khăn nếu doanh nghiệp tổ chức tiêu thụ sản phẩm bằng nhiều cấp tiêu thụ khác nhau: vừa bán lẻ trực tiếp, vừa bán sỉ cho đại lý,…
Do đó, mức giá bán thực tế được sử dụng để điều tra về hành vi phải là giá bán thực tế của doanh nghiệp bị điều tra chứ không phải giá thị trường hay giá suy định để xác định về hành vi vi phạm nếu như các mức giá đó không là giá bán thực của doanh nghiệp bị điều tra. Mức giá được sử dụng phải là giá áp dụng cho các khách hàng giao dịch trực tiếp với doanh nghiệp.
Thứ hai, áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng. Theo quy định tại Điều 13 Luật cạnh tranh năm 2018 và Nghị định 35/2020/NĐ-CP thì nhóm hành vi này có ba loại vi phạm cụ thể sau:
– Một, hành vi áp đặt giá mua hàng hóa, dịch vụ được coi là bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng nếu giá mua tại cùng thị trường liên quan được đặt ra thấp hơn giá thành sản xuất hàng hóa, dịch vụ trong điều kiện sau: chất lượng hàng hóa, dịch vụ đặt mua không kém hơn chất lượng hàng hóa, dịch vụ đã mua trước đó; không có khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa hoặc biến động bất thường làm giá bán buôn hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ trên thị trường liên quan giảm tới mức dưới giá thành sản xuất trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp so với trước đó.
– Hai, hành vi áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ được coi là bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng nếu cầu về hàng hóa, dịch vụ không tăng đột biến tới mức vượt quá công suất thiết kế hoặc năng lực sản xuất của doanh nghiệp và thỏa mãn hai điều kiện sau: giá bán lẻ trung bình cùng thị trường liên quan trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp được đặt ra tăng một lần vượt quá 5% hoặc tăng nhiều lần với tổng mức tăng vượt quá 5% so với giá đã bán trước khoảng thời gian tối thiểu đó; không có biến động bất thường làm tăng giá thành sản xuất của hàng hóa, dịch vụ đó vượt quá 5% trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp trước khi bắt đầu tăng giá.
– Ba, ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng là việc khống chế không cho phép các nhà phân phối, các nhà bán lẻ bán lại hàng hóa thấp hơn mức giá đã quy định trước.
Với hành vi này, khách hàng là những người bị chịu thiệt hại bởi giá mà họ phải mua quá cao so với giá trị thực tế của sản phẩm hoặc phải bán hàng hóa với giá thấp hơn giá thành thực. Giá mua, giá bán sản phẩm trên thị trường không được hình thành từ cạnh tranh mà do các doanh nghiệp thống lĩnh ấn định. Mức chênh lệch giữa giá được ấn định với giá cạnh tranh là khoản lợi ích độc quyền mà doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh có được.
Dưới góc độ kinh tế, bằng hành vi này doanh nghiệp thống lĩnh đã có được toàn bộ giá trị thặng dư tiêu dùng của thị trường mà thực chất là phần giá trị lẽ ra được hưởng của người tiêu dùng, nếu có cạnh tranh. Với những hành vi này, giá mua, giá bán hàng hóa dịch vụ không được hình thành theo đúng các quy luật của thị trường mà do các doanh nghiệp có quyền lực thị trường ấn định. Do đó, hành vi này được coi là hành vi điển hình mang tính chất bóc lột khách hàng.
Thứ ba, hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kĩ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khác hàng. Doanh nghiệp thống lĩnh phần lớn thị trường là người nắm giữ thị phần lớn nên đại diện cho năng lực, quy mô sản xuất, mua bán của thị trường liên quan, các quyết định về hàng hóa, dịch vụ được sản xuất, mua, bán sẽ ảnh hưởng đến mức độ thỏa mãn nhu cầu cho khách hàng. Do ở vào địa vị thấp hơn trong giao dịch bởi quyền lựa chọn bị hạn chế nên khi bị vi phạm quyền lợi, khách hàng khó có thể phản ứng lại vì không thể sử dụng các cơ chế của thị trường để răn đe doanh nghiệp. Nhóm hành vi này bao gồm ba loại hành vi cụ thể:
– Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ gây thiệt hại cho khách hàng là hành vi giảm khả năng cung cấp hàng hóa, dịch vụ một cách giả tạo để lũng đoạn thị trường, làm biến động quan hệ cung – cầu theo hướng có lợi cho doanh nghiệp trong giao dịch với khách hàng. Hành vi này được thực hiện bằng những cách thức sau:
+ Cắt, giảm lượng cung ứng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường liên quan so với lượng hàng hóa, dịch vụ cung ứng trước đó trong điều kiện không có biến động lớn về quan hệ cung cầu; không có khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa; không có sự cố lớn về kỹ thuật; hoặc không có tình trạng khẩn cấp. Trong trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền phải thu thập các số liệu về lượng hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp bị điều tra cung cấp trước và sau khi thực hiện hành vi; đồng thời thẩm tra những diễn biến của thị trường trong thời gian trước và trong khi hành vi được thực hiện. Nếu kết luận cho thấy doanh nghiệp bị điều tra đã chủ động cắt giảm lượng cung cấp hàng hóa, dịch vụ trong khi không xảy ra những biến động trên thì kết luận hành vi đó vi phạm hoặc không vi phạm.
+ Ấn định lượng cung ứng hàng hóa, dịch vụ ở mức đủ để tạo khan hiếm trên thị trường. Trong trường hợp này, doanh nghiệp đã định lượng khả năng sản xuất, cung ứng hàng hóa, dịch vụ của mình để tạo khan hiếm trên thị trường và quan trọng nhất là đủ tạo khan hiếm trên thị trường.
+ Găm hàng lại không bán để gây mất ổn định thị trường. Hành vi này được hiểu là doanh nghiệp vẫn sản xuất hoặc thu mua hàng hóa theo năng lực nhưng đã không cung cấp ra thị trường theo nhu cầu của khách hàng với mục đích mưu lợi, gây mất ổn định thị trường.
– Giới hạn thị trường gây thiệt hại cho khách hàng là hành vi doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh đã tự giới hạn khu vực bán hoặc giới hạn nguồn mua sản phẩm mà không có lý do chính đáng gây thiệt hai cho khách hàng. Quyền tự do kinh doanh là quyền của doanh nghiệp nhưng việc giới hạn thị trường gây thiệt hại bị coi là vi phạm pháp luật cạnh tranh khi doanh nghiệp có sức mạnh thị trường thực hiện một trong hai hành vi sau:
+ Chỉ cung ứng hàng hóa, dịch vụ trong một hoặc một số khu vực địa lý nhất định. Hành vi này làm cho các khách hàng ở những khu vực địa lý khác trên thi trường liên quan không có cơ hội được thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng, không được sử dụng các sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất hoặc phân phối. Hành vi này đã bao hàm trong nó khả năng gây thiệt hại đối với khác hàng mà các cơ quan thi hành pháp luật không cần phải chứng minh hâu của quả chúng đối với thị trường.
+ Chỉ mua hàng hoá, dịch vụ từ một hoặc một số nguồn cung nhất định trừ trường hợp các nguồn cung khác không đáp ứng được những điều kiện hợp lý và phù hợp với tập quán thương mại thông thường do bên mua đặt ra. Hành vi này doanh nghiệp đã giới hạn thị trường mua hàng hóa, dịch vụ theo nguồn cung cấp (theo khách hàng) mà không có lý do chính đáng.
Luật sư
– Cản trở sự phát triển kĩ thuật, công nghệ làm thiệt hại cho khách hàng là việc doanh nghiệp thực hiện những hành vi nhằm cản trở việc nghiên cứu phát triển kĩ thuật, công nghệ hoặc ngăn cản việc ứng dụng tiến bộ khoa học hoặc kĩ thuật và hoạt động kinh doanh. Hành vi này bao gồm các loại hành vi sau:
+ Mua sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp để tiêu hủy hoặc không sử dụng. Doanh nghiệp thực hiện hành vi không phải là tác giả mà là người mua lại sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp từ các chủ thể khác. Việc tiêu hủy hoặc không sử dụng những đối tượng trên cho thấy doanh nghiệp thực hiện hành vi không có ý định khai thác lợi ích của sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp để phục vụ cho hoạt động kinh doanh mà chỉ lợi dụng quyền được bảo hộ để ngăn cản các doanh nghiệp khác không được tiếp cận và sử dụng những đối tượng đó.
+ Đe dọa hoặc ép buộc người đang nghiên cứu phát triển kỹ thuật, công nghệ phải ngừng hoặc hủy bỏ việc nghiên cứu đó. Vì lợi nhuận, các doanh nghiệp đã đua nhau phục vụ khách hàng một cách tốt nhất, kể cả không ngừng nghiên cứu, ứng dụng khoa học để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất. Nhờ cạnh tranh, các chủ thể của thị trường được hưởng những thành quả của khoa học và công nghệ. Sự tồn tại của doanh nghiệp thống lĩnh trên thị trường làm giản sức ép cạnh tranh, làm cho động lực phát triển kĩ thuật giản, xâm hại nghiêm trọng đến quyền hưởng thụ của xã hội thông qua các khách hàng.
Thứ tư, hành vi áp đặt các điều kiện thương mại khác nhau cho các giao dịch như nhau nhằm tạo sự bất bình đẳng trong cạnh tranh. Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong điều kiện giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh là hành vi phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp về điều kiện mua, bán, giá cả, thời hạn thanh toán, số lượng trong những giao dịch mua, bán háng hóa, dịch vụ tương tự về mặt giá trị hoặc tính chất hàng hoá, dịch vụ để đặt một hoặc một số doanh nghiệp vào vị trí cạnh tranh có lợi hơn so với doanh nghiệp khác.
Thứ năm, áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng. Nhóm hành vi này có hai loại hành vi sau:
– Áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ là việc đặt điều kiện tiên quyết sau đây trước khi ký kết hợp đồng:
+ Hạn chế về sản xuất, phân phối hàng hoá khác; mua, cung cứng dịch vụ khác không liên quan trực tiếp đến cam kết của bên nhận đại lý theo quy định của pháp luật về đại lý;
+ Hạn chế về địa điểm bán lại hàng hóa, trừ những hàng hóa thuộc danh mục mặt hàng kinh doanh có điều kiện, mặt hàng hạn chế kinh doanh theo quy định của pháp luật;
+ Hạn chế về khách hàng mua hàng hóa để bán lại, trừ những hàng hóa quy định tại điểm b khoản này;
+ Hạn chế về hình thức, số lượng hàng hoá được cung cấp.
Theo đó, doanh nghiệp đã buộc khách hàng khi mua, bán hàng hóa, dịch vụ phải chấp nhận các điều kiện có nội dung hạn chế cạnh tranh. Ngoài nghĩa vụ của bên mua hoặc bên bán hàng hóa, dịch vụ, khác hàng phải chấp nhận thêm các điều kiện ký kết hợp đồng do doanh nghiệp đặt ra. Những điều kiện này có thể là một nghĩa vụ nằm trong một vài điều khoản của hợp đồng hoặc chỉ là một yêu cầu độc lập được doanh nghiệp đưa ra khi đàm phán ký kết hợp đồng. Cần phải lưu ý: khách hàng trong các giao dịch bị áp đặt điều kiện ký kết hợp đồng phải là các doanh nghiệp khác; các điều kiện được doanh nghiệp đưa ra có nội dung phản cạnh tranh; chiến lược bóc lột thường được các doanh nghiệp sử dụng làm công cụ để tối đa hoá lợi ích không phải từ hiệu quả kinh doanh mà từ sự tận dụng lợi thế của vị trí thống lĩnh.
– Buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng là hành vi gắn việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ là đối tượng của hợp đồng với việc phải mua hàng hoá, dịch vụ khác từ nhà cung cấp hoặc người được chỉ định trước hoặc thực hiện thêm một hoặc một số nghĩa vụ nằm ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng. Tương tự như hành vi áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ là việc đặt điều kiện tiên quyết sau đây trước khi ký kết hợp đồng, khi thực hiện hành vi này, doanh nghiệp cũng đặt ra điều kiện đối với khách hàng (doanh nghiệp khác) để ký kết hoặc thực hiện
Sự khác nhau giữa hai hành vi là những yêu cầu được doanh nghiệp đưa ra. Với hành vi buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng, doanh nghiệp đã bắt khách hàng phải mua thêm hàng hóa, dịch vụ khác từ nhà cung cấp hoặc từ người thứ ba được chỉ định hoặc phải thực hiện thêm những nghĩa vụ nằm ngoại phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng.
Thứ sáu, Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới. Đối thủ cạnh tranh mới là doanh nghiệp đang tìm cách tham gia thị trường. Ngăn cản việc gia nhập thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới là hành vi tạo ra những rào cản sau đây:
– Yêu cầu khách hàng của mình không giao dịch với đối thủ cạnh tranh mới. Đây được coi là hành vi thâu tóm khách hàng. Bằng việc yêu cầu khách hàng của mình không giao dịch với đối thủ cạnh tranh mới, các doanh nghiệp đã tạo ra những khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm hoặc làm tăng chi phí sản xuất, kinh doanh của đối thủ. Nếu khách hàng là người tiêu thụ hoặc phân phối sản phẩm, thì hành vi này đã làm cho đối thủ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn đầu ra. Ngược lại, nếu khách hàng là người cung cấp nguyên liệu đầu vào, hành vi này đã ngăn cản đối thủ mới tiếp cận các nguồn nguyên liệu quan trọng trên thị trường. Trong mọi trường hợp, đối thủ cạnh tranh buộc phải tổ chức kế hoạch tìm kiếm nguồn nguyên liệu mới hoặc nguồn tiêu thụ mới. Việc thâu tóm các nguồn cung cấp nguyên liệu, nguồn tiêu thụ đã làm tăng chí phí của đối thủ, có thể làm cho đối thủ bị suy giảm sức cạnh tranh.
– Đe dọa hoặc cưỡng ép các nhà phân phối, các cửa hàng bán lẻ không chấp nhận phân phối những mặt hàng của đối thủ cạnh tranh mới. Với chiến lược này, doanh nghiệp có quyền lực thị trường đã hạn chế khả năng phân phối sản phẩm của đối thủ mới bằng cách khống chế ý chí của những nhà phân phối hoặc các cửa hàng bán lẻ, ép buộc họ không được phân phối sản phẩm của đối thủ. Lúc này, để có thể tiêu thụ được sản phẩm, đối thủ mới buộc phải có chiến lược xây dựng và phát triển mạng lưới phân phối hoàn toàn mới. Những chiến lược này sẽ là mạo hiểm bởi sẽ làm tăng chi phí và tăng độ rủi ro khi tiêu thụ sản phẩm do người sản xuất và nhà phân phối đều là doanh nghiệp mới trên thị trường.
– Bán hàng hóa với mức giá đủ để đối thủ cạnh tranh mới không thể gia nhập thị trường trừ những trường hợp pháp luật cho phép. Chiến lược ngăn cản qua giá được thực hiện để làm cho các nhà kinh doanh có ý định gia nhập phải cân nhắc khả năng có được lợi nhuận hay không với mức giá hiện tại (đã được hạ thấp).
Như vậy, kiểm soát và xử lý cách hành vi lạm dụng vị trí thông lĩnh, vị trí độc quyền là một trong những nhiệm vụ quan trọng của pháp luật luật cạnh tranh nhằm bảo vệ môi trường cạnh tranh, không phân biệt đối xử. Pháp luật chỉ xử lý hành vi lạm dụng chứ không xử lý vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp. Nhà nước luôn khuyến khích và tạo những hỗ trợ tốt nhất cho doanh nghiệp phát triển, cạnh tranh lành mạnh vì sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng cũng như sự phát triển kinh tế đất nước nói chung.