Bài viết này sẽ cung cấp cho các bạn học sinh, phụ huynh, các thầy cô giáo Dàn ý và bài văn mẫu Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính hay nhất. Mong bài viết này có thể giúp các bạn học sinh hoàn thành tốt bài tập của mình, đạt kết quả cao.
Mục lục bài viết
1. Dàn bài phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính hay nhất:
a. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả Nguyễn Bính: được coi là “thi sĩ của đồng quê”
– Giới thiệu bài thơ Tương tư: khái quát nội dung, hoàn cảnh sáng tác – được trích trong tập “Lỡ bước sang ngang”
b. Thân bài:
– Giới thiệu về “căn bệnh” tương tư của nhân vật trữ tình:
+ Là sự nhớ thương của một người yêu đơn phương
+ Là điều tất yếu xảy ra trong tình yêu đôi lứa
– Những biểu hiện của “căn bệnh” tương tư:
+ Hờn dỗi, trách móc
+ Than thở nhớ mong
+ Trông ngóng, trách cứ
+ Khao khát và ước muốn tình yêu đôi lứa
3. Kết bài
– Nêu đặc sắc nội dung và đặc sắc nghệ thuật
– Nêu cảm nhận của em về bài thơ Tương Tư của Nguyễn Bính.
2. Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính hay nhất:
Nguyễn Bính là một nhà thơ nổi tiếng được coi là một thi sĩ hồn quê trong phong trào Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám. Hồn quê của Nguyễn Bình hào quyện giữa âm hưởng gần gũi với ca dao dân ca, giản dị hồn nhiên mà ngọt ngào, thắm thiết với giọng điệu của thời đại mới. Bài thơ Tương tư là một trong những bài thơ tiêu biểu mang hồn quê của nhà thơ Nguyễn Bính được in trong tập Lỡ bước sang ngang, xuất bản năm 1940 tại Hà Nội. Đây cũng là tập thơ mang lại tiếng vang cho tác giả và dấy lên trong đông đảo người đọc một phong trào thuộc thơ, yêu thơ Nguyễn Bình.
Bài thơ Tương tư nói lên tâm trạng chờ mong của một chàng trai đang yêu với tình yêu đơn phương không được đáp đền. Chàng trai trong bài thơ tương tư nhưng một cách nhẹ nhàng bởi tình yêu của chàng chưa được đặt trong một mối quan hệ cụ thể. Tâm lý luôn muốn được gần gũi bên người mình thường, một ngày không gặp như dài ba thu, nhớ mà sinh tương tư. Mối tương tư ấy được đặt vào khung cảnh nông thôn với dáng dấp một mối tình chân chất như trong ca dao và mang hương vị đồng quê mộc mạc…
Bốn câu thơ đầu của bài thơ đã bày tỏ tâm trạng nhớ mong khắc khoải của kẻ đang yêu. Chàng trai không giấu là mình tương tư:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng…
Trong những câu thơ của mình, tác giả đã thể hiện mối tương tư ấy qua nghệ thuật hoán dụ và thủ pháp nhân hóa với những hình ảnh quen thuộc trong ca dao giân dan xưa, cùng với việc sử dụng những thành ngữ dân gian kết hợp với nhau một cách hài hòa, tự nhiên: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, rồi bệnh của giời, bệnh của tôi… Nỗi nhớ mong của mỗi nhân vật trữ tình mà như cả đất trời cũng đang chia sẻ nhớ mong với anh. Tâm trạng tương tư của chàng trai cũng tự nhiên như quy luật của trời đất khi tôi yêu nàng, tôi tương tư, nào có khác chi trời lúc gió lúc mưa.
Trong phong trào thơ mới lúc bấy giờ, “cái tôi” trong thơ của Nguyễn Bính xuất hiện cùng với những “cái tôi” trong bài thơ khác, nhưng nó mang một màu sắc độc đáo riêng bởi sự thiết tha, chân thành, gần gũi với cuộc đời bình dị của chính người dân quê. “Cái tôi” đó gắn liền với thôn Đông, thôn Đoài, có chín nhớ mười mong, có giầu, có cau… Tưởng như một đôi trai gái đồng quê mới bén duyên nhau bên hàng rào dâm bụt, bên giậu mùng tơi, vừa rõ ràng mà vừa mơ hồ. Nhân vật tôi thì đã rõ, còn nhân vật nàng thì vẫn thấp thoáng, vu vơ.
Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ nói thật là mình đang tương tư thì đến ba khổ thơ sau, nhà thơ trách người mình yêu sao quá hững hờ:
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Những đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
Âm điệu thơ lục bát uyển chuyển, mượt mà rất hợp với cách thể hiện nỗi tương tư dung dị của chàng trai khi nhớ thương có đi mà không có lại: nào là hai bên chung lại một làng, bên ấy, bên này; nào là Cách nhau có một đầu đình; Có xa xôi mấy mà tình xa xôi… Trách móc rồi tự bộc bạch là mình Tương tư thức mấy đêm rồi và ước mong: Bao giờ bến mới gặp đò, Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau? Trách, hỏi liên tiếp, dồn dập mà người ta vẫn hững hờ, xa xôi.
Thế là đã rõ: Tất cả đều vu vơ, chỉ có một điều rất thật là nỗi buồn da diết của chàng trai đang tương tư. Yêu người mà chẳng được người yêu, nhớ mong mà chẳng gặp. Một mối tình như thế sẽ kết thúc ra sao? Chàng trai trở lại với ước mơ thầm kín về một cuộc hôn nhân tốt đẹp cùng nỗi băn khoăn, khắc khoải của lòng mình:
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Đến lúc này thì không cần vòng vo, ẩn giấu chi nữa, chàng trai không còn xưng tôi mà mạnh dạn xưng là anh và gọi nàng bằng em. Cũng chẳng cần bóng gió xa xôi: Bao giờ bến mới gặp đò… hay Tương tư thức mấy đêm rồi… mà nói thẳng đến chuyện hôn nhân:
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Câu thơ có hình ảnh ví von dí dỏm giàu nhà em và cau nhà anh kết thành một mâm xinh đẹp, đúng luôn với nghi lễ cưới xin. Nhưng điều trớ trêu là giầu thì ở nhà em còn cau lại ở nhà anh. Em thì ở thôn Đông còn anh thì ở thôn Đoài: Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông. Vậy: Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào? Như vậy là tình cảm này vẫn chỉ dừng ở tương tư mà chưa đi quá nỗi nhớ, và nỗi nhớ ấy cũng chỉ ở một phía. Dù có thân mật hơn trong cách xưng hô anh và em nhưng cũng chẳng tiến lên được một bước nào.
Bài thơ tương tư được Nguyễn Bính sáng tác năm 1939, là một mảnh “hồn” của nhà thơ và cũng là “cái tôi” mang đậm chất phong cách của ông là một người giản dị, hồn nhiên, dân dã mà không kém phần thơ mộng, lãng mạn. Câu chuyện tương tư của nhà thơ những thực chất đó là khao khát tình yêu và hạnh phúc đang được nói tới. Qua bài thơ có thể khẳng định bài thơ Tương tư là một trong những dẫn chứng chứng tiêu biểu minh cho nhận xét tinh tế của Tô Hoài về Nguyễn Bính: Nguyễn Bính là nhà thơ của tình quê, chân quê, hồn quê.
3. Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính ngắn gọn nhất:
Nhà thơ Nguyễn Bính (tên khai sinh là Nguyễn Bính Tuyết) sinh năm 1918 và mất năm 1966. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám. Nhưng không giống những nhà thơ cùng thời kỳ, ông không hề bị chịu ảnh hưởng sâu đậm của thơ ca lãng mạn Pháp, mà thơ của Nguyễn Bính thường mang ảnh hưởng của văn hóa dân gian, gắn bó với cuộc sống bình dị, thân thuộc của đồng quê, đặc biệt các câu thơ mang những hình ảnh thân thuộc của ca dao, dân ca xưa như hàng cau, giàn trầu, rặng mồng tơi, cây đa, giếng nước, sân đình…
Bài thơ Tương tư được rút trong tập thơ Lỡ bước sang ngang, tập thơ nổi tiếng và tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính trước cách mạng.
“Tương tư’ có nghĩa là nhớ nhau. Nỗi tương tư trong bài thơ này không chỉ đơn thuần là nhớ nhung mà là một phức hợp các cảm xúc khác nhau, với những diễn biến không hề xuôi chiều. Bắt đầu là sự nhớ nhung:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
/…/
Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có mốt hàng cau liên phòng
Tất cả những cung bậc cảm xúc được diễn biến theo lối xen lồng và chuyển hóa nhau rất tự nhiên, chân thực.
Trong bài thơ, chàng trai thể hiện tình cảm theo kiểu có ý trách móc cô gái. Trách móc không phải vì ghét hay đổ lỗi mà trách vì yêu. Chàng trai trong câu chuyện đang trong vai thụ động ngồi chờ đợi mới có thể bộc bạch được tâm trạng tâm tư của một người trai quê như thế. Do bị nỗi mong chờ này kéo dài giày vò nên nghĩ mình bị nàng hờ hững, sinh hờn dỗi, trách ngượi, trách xuôi. Đây cũng là một cách bộc bạch tình yêu một cách bất lực.
Nghệ thuật trong câu lục ngắt nhịp 3/3 phá đi cái nhịp thông thường của thơ lục bát (2/2/2). Sự kết hợp với cách ngắt nhịp này cùng với ý và lời vế sau lặp lại vế trước khiến chữ “lại” ở đầu nhịp sau trở thành điểm nhấn của ngữ điệu. Cho thấy chàng trai nhớ nhưng trong hoàn cảnh thời gian trôi qua hết sức chậm chạp, ngày qua ngày lặp lại nỗi nhớ nhung cũ một cách chán ngán và vô vọng.
Nỗi tương tư của chàng trai được tạo ra trong không gian quê kiểng, tâm trạng tương tư của mình đươc diễn tả một cách tự nhiên, kín đáo, tế nhị và đậm nét chân quê hơn vì nó gắn liền với khung cảnh và cây cỏ chốn quê. Trong nỗi nhớ nhung của chàng trai hiện lên những chi tiết về những địa danh, cảnh vật, cây cỏ… thuộc về chốn quê bao đời: thôn Đoài, thôn Đông, đò giang, bến đò, hoa bướm, giàn giầu, hàng cau… Hình ảnh thôn Đoài và thôn Đông tạo ra nỗi nhớ song hành, có người nhớ người mà có thôn nhớ thôn. Tình với cảnh như hòa quyện vào nhau.
Khát vọng lứa đôi trong mối tương tư này còn được biểu hiện tinh vi bằng nhiều cặp đôi trong bài: thôn Đoài – thôn Đông, một người – một người, gió mưa – tương tư, tôi – nàng, bên ấy – bên này, hai thôn – một làng, bến – đò. hoa khuê các – bướm giang hồ, nhà anh – nhà em, giàn giầu – hàng cau, cau thôn Đoài – giầu thôn Đông.
Các cặp đôi trong bài được nhắc đến được xuất hiện theo trình tự từ xa đến gần, cuối cùng nó dừng lại ở cặp đôi giầu – cau là đặc trưng của một đám cưới viên mãn. Điều ấy cho thấy rõ, sâu thẳm sau tương tư ấy là niềm khát khao được gần kề bên người mình thương, khao khát một tình yêu chung tình, khao khát nhân duyên, tình yêu gắn với hôn nhân là một điều về quan niệm tình yêu trong thơ Nguyễn Bính (cũng giống với ca dao). Điều này thêm một minh chứng để khẳng định thêm rằng chất truyền thống, chất chân quê, hồn quê đã thấm sầu và hồn thơ Nguyễn Bính.