Năm 1948, tại Phù Lưu Chanh (Hà Tây cũ),Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến nói lên tình thương nhớ chiến trường, nhớ đồng đội thân yêu một thời trận mạc. Tây Tiến là một thi phẩm tiêu biểu và đặc sắc của nhà thơ Quang Dũng khi viết về chủ đề người lính. Dưới đây là bài văn mẫu phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng hay nhất.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng :
Mở bài:
- Giới thiệu tác giả
Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài, Tây Tiến là bài thơ được tác giả viết bằng cả tâm tình của một người từng gắn bó và trải nghiệm với cuộc đời người lính Tây Tiến). - Dẫn dắt và đi vào phân tích.
Thân bài
Đôi nét về tác phẩm:
- Hoàn cảnh sáng tác:
- Rời xa đoàn quân Tây Tiến chưa bao lâu, hồi ức kỉ niệm về chiến trường xưa và đồng đội cũ vẫn đầy ắp trong tim, cứ thế mà trào ra theo nỗi nhớ, tuôn chảy thành bài thơ.
- Ban đầu bài thơ có tên: Nhớ Tây Tiến.
Những nội dung cần làm rõ:
- Nỗi nhớ khung cảnh chiến trường Tây Bắc của nhà thơ. Một chiến trường vừa dữ dội ác liệt lại vừa thơ mộng trữ tình.
- Cảnh đêm liên hoan ở cùng biên giới Việt Lào tưng bừng, rộn rã và cảnh sông nước Châu Mộc huyền ảo, thơ mộng hiện lên qua nỗi nhớ tác giả.
- Chân dung người lính Tây Tiến hào hùng mà hào hoa, với lí tưởng đẹp “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, với cái chết bất tử đầy bi tráng.
- Nhà thơ đã rời xa đơn vị, nhưng vẫn gửi lòng mình gắn bó với đơn vị, với những ngày tháng đã qua, với một thời đánh giặc anh hùng, rực lửa.
Nét đặc sắc nghệ thuật:
- Kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn: thiên nhiên vừa hoang sơ vừa trữ tình, gắn liền với những kỉ niệm sâu lắng.
- Cảm hứng lãng mạng và sắc thái bi tráng đã tạo nên tính sử thi đặc biệt cho bài thơ.
- Một số thủ Pháp nghệ thuật như: đối lập, cường điệu…
- Ngôn ngữ giàu chất tạo hình và giàu tính nhạc, âm điệu, nhịp thơ biến hóa linh hoạt. Giọng thơ thay đổi theo cảm xúc.
Kết bài
- Nhận xét chung về nội dung và nghệ thuật bài thơ.
- Phát triển mở rộng (nhận định, suy nghĩ của cá nhân).
2. Phân tích bài thơ Tây tiến của Quang Dũng hay nhất:
Cuộc chiến tranh chống Pháp là bao vết dấu không thể nào phai giữa lòng dân tộc. Cuộc là sự hoà quyện của muôn triệu trái tim một lòng yêu đất nước đã hun đúc ý chí chiến đấu kiên cường và anh dũng của dân tộc việt nam. Cuộc chiến tranh cũng đã phát sinh bao hình tượng khác mà sáng nhất là những người anh hùng. Bên cạnh các tác phẩm văn học đình đám một thời như nhớ của Chính Hữu, Thương của Hồng Nguyên hay Tây Tiến của Quang Dũng là một tác phẩm xuất sắc. Đoàn quân Tây Tiến tập hợp một đội ngũ hùng hậu của các thế hệ tuổi trẻ trên khắp đường phố Hà Nội. Có những thanh niên học trò trong giới trí thức ấy đã bỏ cuốn sách giáo khoa trường ra theo cuộc chiến đấu của dân tộc. Tất cả những người đó đều lên đường với mục đích chung của dân tộc là chiến đấu vì độc lập và chủ quyền của đất nước. Họ rời quê hương không hẹn ngày quay lại chiến đấu với mục tiêu “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” Cái gương anh hùng ấy là sức mạnh của cả một dân tộc và đã từng được thể hiện qua một câu ca nào đấy:
Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi,
Nào có sá chi đâu ngày trở về.
Ngâm dòng người náo nức lên đường tham gia chiến đấu, giữa đội ngũ bao thanh niên trí thức ngày ấy không chỉ là lực lượng xung kích chiến đấu trên phố xá và luỹ Hà Nội, mà nay đã có mặt cùng đoàn quân Đó, thấp hơn xuất hiện một khuôn mặt: Quang Dũng, chủ nhân của bài thơ. Như biết bao thanh niên trí thức của Hà Nội ngày đó, Quang Dũng cũng hào hứng tham gia đoàn quân Ấy với một lòng nhiệt thành của tuổi trẻ và sự lãng mạn của những người thanh niên “nho sĩ quý tộc” thể hiện qua lời ca:
Giã nhà đeo bức chiến bào
hay
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Cũng có lẽ vì vậy nên nhiều người như Quang Dũng đã bất chấp tất cả khó khăn và hy sinh để chiến đấu cho ngày toàn thắng cuối. Vào Bộ đội, Quang Dũng đã gắn bó và chiến đấu một thời với đơn vị này rồi từ đấy di chuyển qua đơn vị khác. Một ngày ngồi tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ lại những tình bạn, nhớ đến những năm tháng đánh nhau gian khổ nhưng oai hùng, nhớ đơn vị cũ và nhớ những con đường mòn hành quân nơi ông với đơn vị đã trải qua. Nỗi nhớ ấy ngày càng lớn hơn trong Quang Dũng và bật ra từ hai câu này.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Trong cuộc đời của Quang Dũng và nhiều vùng đất anh đã trải qua chắc hẳn là bao kỷ niệm vô cùng sâu sắc trong trái tim nhà thơ. Cũng một phần lớn chặng đường Quang Dũng gắn với Tây Tiến là những hoạt động trên miền rừng núi. Bởi thế, nhà thơ nhớ tới Tây Tiến là nhớ ngay đến sông Mã, nhớ về rừng núi với biết bao kỷ niệm buồn vui và cảm xúc của một miền rừng núi hùng vĩ đã lưu mãi nơi trái tim nhà thơ dư âm không phai. Vì thế, Quang Dũng nhớ lại những năm tháng đã xa với một tình thương yêu vô hạn nhưng không sao đặt tên đúng nỗi nhớ đó. “Nhớ chơi vơi!” là một nỗi nhớ không có ảnh cũng không có chữ nhưng dường như nó nặng nề và mênh mông tràn ngập. Cái nỗi nhớ mà tôi đã gặp ít nhất một lần trên đời:
Ra về nhớ bạn chơi vơi
hoặc:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.
Quang Dũng dùng mối nhớ trong câu thơ này để đế lại những nỗi nhớ da diết của ông, đó là chi tiết đáng giá! Ngay tại đầu bài thơ, ông đã tả miền núi rừng đó tha thiết như vậy khiến cho người ta nhớ ngay. Nhớ Tây Bắc, nhớ dòng sông Mã và núi non hùng vĩ, nhớ con đường mòn đi:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Con đường hành quân điệp trùng với biết bao sự gian nan và khốc liệt của những miền núi rừng tây bắc. Đọc đoạn thơ, không phải suy nghĩ nội dung bên dưới, ta đã có thể mường tượng được con đường như Quang Dũng mô tả. Kết cấu đoạn thơ từ thanh dọc đến ngang chéo lại và nối dài ra miên man, bất tận y như con đường hành quân vậy. trong mơ màng, huyền ảo. Đoàn quân Tây Tiến đi dưới làn mây dày của rừng núi, tất cả long lanh trong màn sương ấy, như thật, như mơ. Thế đấy, mỗi địa danh lại khơi dậy nơi người đọc những cảm giác của một vùng đất mới ở phía chân trời và nếu chúng ta cứ thử gọi Sài Khao theo một cách nói khác là màn sương mù ấy sẽ tan biến ngay. Khi quân Tây Tiến đi bộ trên con đường dài vạn dặm đối mặt với sự hiểm trở và khó khăn của con đường. Đã đèo lên rồi còn xuống dốc thăm thẳm, đã ngàn thước leo cao thì phải ngàn thước nữa mới gọi là đến cái cao chót vót và quanh co để đi. Tất cả các đặc trưng đó lột tả sự vất vả của đoàn quân Này lúc di chuyển. Để lưu lại dấu ấn của một miền núi quả là khốc liệt và khắc nghiệt. Quang Dũng có những cách sử dụng từ ngữ hết sức thông minh mà cũng vô cùng nghịch ngợm: đèo cao chạm núi nối với cồn hoang vu, còn khi mô tả độ cao của nó thì bằng ba cái máy ngửi trời trông rất buồn cười. nó cũng là cách nói của bộ đội được Quang Dũng kể đến với vai trò một người cùng giới? Dù sao, với các ngôn từ, chi tiết và cách sắp xếp vần của bài thơ cũng đã phác nên cho lòng người về một miền núi rừng nơi đoàn quân Tây Tiến đã cùng đi qua. Có nhiều câu sử dụng toàn bộ vần thơ khá đẹp:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Sương lúc ngàn thước lên cao là ngàn thước về những chiến sỹ Tây Tiến đang ở trên núi cao mà trông dưới thung lũng phủ đầy trong màn mưa. Những căn nhà sàn dường như đang trôi nổi lênh đênh dưới màn mưa trắng. Thanh văn của mỗi từ mở rộng và mênh mông để miêu tả cái màn mưa phủ kín thung lũng. Vùng núi cao, ấn tượng về miền này cũng rất là khốc liệt và khắc nghiệt:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Chỉ hai câu thơ ấy đã chạm đến tâm hồn chúng ta suy nghĩ về cái khốc liệt của miền rừng núi tây bắc một miền núi rừng hoang vu với thú dữ rình rập người dân. Hai từ Mường Hịch gắn với nhau nghe nặng nề tựa con hổ. Có một sự lạ là nếu chúng ta đổi từ này với hai chữ cái nữa kiểu Châu Thuận kia, lập tức ý nghĩa câu thơ sẽ giảm ngay. Trong cách tả của Quang Dũng là một miền rừng núi hoang vu nổi lên với đầy đủ những khó khăn và khắc nghiệt của tự nhiên. Đó là sự vất vả những người lính Đã phải trải qua trên con đường mòn này. Những vất vả và khó khăn trên con đường mòn Này bỗng khiến ta nghĩ về câu thơ của Lí Bạch:
Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên.
(Đường xứ Thục khó đi, khó hơn lên tận trời xanh).
Đó là tất cả những gian khổ, nguy hiểm do thiên nhiên đem đến mà người chiến sĩ Tây Tiến phải chịu đựng.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ, bỏ quên đời!Quang Dũng kể câu chuyện thật trên con đường Tây Tiến. Những vị chiến sĩ đã ở mãi trên con đường tây tiến. Có một sự kỳ lạ làm rực lên tất cả bài thơ là anh lính Tây Tiến trước lúc gục ngã đã cố giữ tư thế của người lính khi ra đi nhưng khẩu mũ vẫn ở lại và hành trang của các chiến sĩ thì luôn trong tư thế tiếp chuyến hành trình. Những điều kiện gian khổ khó khăn, khốc liệt khắc nghiệt của con đường đi và của thiên nhiên xứ lạnh đã thử thách các chiến sĩ Hành quân hết sức khủng khiếp. Có nhiều người lính đã đi qua tất cả, song cũng không hiếm những chiến sĩ mãi mãi ở lại phía sau. Người lính hành quân giữa nắng mưa, vượt từ khó khăn này sang gian khổ kia, chịu đựng hết thử thách nọ đến thử thách khác mà như là không nản bước; kể cả lúc mệt mỏi và gục ngã họ cũng cố gục lại trong tư thế của những chiến sĩ.
Cho dù Quang Dũng có nói sự thật là một miền núi rừng thiếu vắng người, song với những đức tính cao đẹp của các chiến sĩ đã giúp bộ đội vươn tới, tiến bước trên mọi gian khổ và khó khăn. Quang Dũng là một kẻ thua cuộc trong vai trò là chiến sĩ Tây Tiến và cũng vì thế nên ông kể lại đời sống gian khổ của những chiến sĩ Tây Tiến một cách vô cùng xúc động. Cái vất vả, khó khăn và khốc liệt của một miền rừng núi, sự gian nan mà các chiến sĩ Tiến đã chịu trở thành những dấu ấn không thể phai mờ. Quang Dũng và anh lính Tây Tiến không giống các thi sĩ kia khi ông nói thực những nỗi vất vả, hi sinh của đời lính một thời. Thế nhưng, hình ảnh anh lính Ấy không vì vậy mà trở nên tầm thường, trái lại còn lên cao đẹp hơn nữa. ảnh người chiến sĩ với cái chết, đó là “bi tráng”. Nói cái gian khổ để ca ngợi chiến thắng nói hi sinh để đưa hình ảnh người lính đến một tầm cao mới cũng là cách “vẽ mây nảy trăng” của hoạ sĩ vậy. Bởi chiến thắng có ý nghĩa hơn những chiến thắng đơn giản và không có hi sinh? Và hình ảnh người lính sẽ không thật sự cao đẹp nếu anh không vượt lên được những khó khăn của đời sống chiến tranh khốc liệt.
Lao xao sóng vỗ ngọn tùng
Gian nan là nợ anh hùng phải vay.
Nhớ là một sự tổng kết sâu sắc hơn giá trị những chiến thắng và giá trị của nhân cách người. Giữa bao sự khó khăn, khốc liệt đã trở thành cảm xúc niềm vui sướng, tuy ngắn ngủi và còn đáng quý hơn nữa:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói ….
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Dường như để mang trạng thái tâm hồn ta có sự thăng bằng mỗi lúc lắng xuống trước cuộc sống đấu tranh của những chiến sỹ Cách mạng, Quang Dũng gợi nên nhiều hình ảnh vui và hạnh phúc. Khói bếp, thoang thoảng hương lúa nếp khơi gợi sự ấm áp của cuộc sống bình yên và hạnh phúc. Độ nóng của không khí đủ để tâm hổn được ấm áp lên qua bao giây phút trải nghiệm khó khăn vất vả của đời lính, đó là hình ảnh có tính gợi và tạo cho chúng ta những cảm xúc tươi vui như thể đang tham dự hội đông vui. Hai bờ bên em vừa buồn lại vừa say vì đã diễn tả được tâm hồn của những chiến sỹ Điện Biên. Trong những bài thơ biến thành điệu khèn, tiếng sáo và các hình ảnh vui tươi của cuộc sống) coi như không liên quan với chiến ưanh. Hình ảnh hát về Viên Chăn có hồn là hình ảnh trữ tình và lãng mạn để thể hiện tâm hồn trong sáng của người lính Điện Biên. Họ mở cuộc vui, bất chấp những thử thách khốc liệt của rừng núi dữ dội. Và cho dù biết rằng sẽ phải thực tục chịu bao gian khổ, hy sinh những anh lính Tây Tiến lại hát ca, đùa vui, sống lạc quan yêu đời. có khi chỉ ngày mai hôm sau một chiến sĩ nào đấy trong đội còn đang ở mãi chốn rừng núi hoang vu, nhưng nay làm hồn họ lại mơ mộng, nghĩ về các hình ảnh đẹp đẽ của thi và hoạ để xây dựng hồn thơ. Nước như vậy, luôn sẵn lòng chấp nhận các thử thách khó khăn và xem đó như một điều tất yếu mà người lính phải biết thích nghi. Không áp đặt, không gò bó, sự vất vả hy sinh của người lính là việc rất bình thường và tất yếu, vì thế nên họ luôn vui vẻ, vẫn lạc quan, được sống với cái hồn tươi trẻ, phơi phới. Cũng thế mà những lính Tây Tiến đôi khi lại thấy một chiếc xuồng cũ, hay một đoá hồng trên làn nước lạnh. Nhìn hình ảnh rất đỗi đời thường đó, tưởng như qua bao nhiêu những thử thách của cuộc sống, anh lính sẽ lãng quên đi. Nhưng không, anh vẫn ghi nhớ. Những hình ảnh đó khắc sâu trong tâm hồn của lính Tây Tiến và là niềm động viên thôi thúc anh phấn đấu, dù cho phải tiếp nhận bao thử thách mới:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Giấc mộng Hà Nội dáng kiều thơm của đoàn quân không mọc tóc! Có một cách nói khác mà lại gợi lên những xúc cảm đến vậy! Như vậy thì hình ảnh của anh lính Tây tiến ấy có trở nên quái đản không? Không xa! Đó chính là hình ảnh oai hùng của anh “Vệ trọc” lừng lẫy một thuở lạnh đến tóc bạc, tuy nhiên, cái lối nói chuyện đoàn quân không mọc tóc ấy ít nhiều cũng tạo ra hình ảnh người lính với dáng vẻ rất dũng mãnh và hiên ngang. Quân không mọc tóc, quân thì xanh màu cây, sắc xanh đó có thể từ cành lá mục, chứ phần lớn là bị sốt rét ác tính. Thơ mùa lạnh khủng khiếp đã lưu những dấu ấn sâu đậm về người lính. Ta xúc động trước hình ảnh người lính Tây Tiến, và gợi nhắc lại hình ảnh của anh qua một vài vần thơ sau:
Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật,
Đâu còn tươi nữa những ngày qua.
Anh lính Tây Tiến cũng chịu cái sốt lạnh khủng khiếp đó, vậy nhưng, tất cả không làm giảm được tinh thần của các chiến sĩ mà trái lại họ còn chiến đấu quả cảm hơn, ngoan cường hơn, áo xanh lá cờ nhưng hổ đỏ oai hùm. Cái khí thế oai hùng của anh lính Cũng có thể kể lại với những so sánh thú vị. Nếu cùng bài thơ trên, người lính dưới sức tấn công của hổ thì ông cũng chiến đấu với lòng quả cảm của một anh hùng như vậy. tinh tế đã nâng câu hát ấy vút lên trong ánh hào quang của hình ảnh anh lính Tây Tiến. trong không khí chiến đấu oai hùng của quân chiến thắng một cuộc so sánh như vậy, Quang Dũng quả thực đã thấu hiểu người lính và đã hoà mình với họ. Chiến đâu mạnh mẽ thế, nhưng anh lính Tây Tiến lại có cái tình Hà Nội vô cùng sâu sắc:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Người chiến sĩ ra đi dưới các ngôi nhà để lại nhưng cũng không rời hậu phương. Phía trước là trận đánh, tình yêu biểu hiện trong cõi thực, có thật và có nằm mơ. hoa thơm tạo lên cái vẻ đẹp của cô con gái Thủ đô và từ thơm còn gắn với ý nghĩa ví như “sắc nước hương trời” đó! Những chiến sĩ của Quang Dũng ra đi còn đem theo cả phong thái lịch lãm của người đàn ông ấy, thứ phong thái đã giúp cho chiến sĩ tồn tại với cuộc sống tinh thần phong phú qua mỗi trận đánh khốc liệt.
Hy sinh đời sống tinh thần ây là niềm động viên giúp người ta tiếp tục chiến đấu nữa để đoạt lại độc lập và hoà bình cho đất nước thân yêu. Ây cũng như thế, người lính đón nhận những hy sinh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc ười xanh.
Hãy thử làm nhiệm vụ chia hai câu thơ thành những từ một. Ôi! Cái cảm giác đau đớn tới tột cùng từ câu thơ đầu tiên đem lại rất rõ ràng. Không biết làm sao, nhưng mỗi khi đọc những câu thơ này là tôi như chìm sâu trong giấc ngủ và lệ lại rơi! Trên con đường mòn quanh co hiểm trở của miền rừng núi này đoàn quân Tây Tiến đã đi và thi thoảng có một số người bị đẩy ra ngoài đội hình. Những ngôi nhà của các anh dựng nên. Câu thơ rất là bi đát. Nó câu thơ sau có một sức kéo khác, đã đẩy câu thơ trước rất cao và tấm thảm giờ đã trở nên bi đát. Nó mạnh mẽ và oai hùng vì Quang Dũng nêu lên một điều cơ bản về phẩm chất của anh bộ đội: biết hy sinh, dù vất vả nhưng cũng phải ra đi giải phóng quê mình. Người ra đi không tiếc nuối cuộc đời mình, vì khoảng thời gian tuổi trẻ đó đã cống hiến theo một triết thuyết cao cả là đấu tranh cho đất nước. Người ra đi rồi ngã xuống mà không một chút luyến tiếc và sự hy sinh được coi nhẹ nhàng giống như:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cách dùng từ áo bào của Quang Dũng khiến cho thơ trở nên giản dị, áo giáp nhưng không phải quân phục; người lính hay các tướng lĩnh thời xa xưa đó là một sự hy sinh. Cũng thế, người chiến sĩ xem sự hy sinh trên mặt trận là một nhiệm vụ cao cả. Người lính Đã ngã xuống và trở về đất. Đất sinh thành nên anh và cũng chào đón anh về quê để thực hiện xong nhiệm vụ. Anh về đất trong một hành động đẹp của người anh hùng. Mở đầu tập thơ là hình tượng sông Mã và cuối đoạn thơ lại là âm thanh gầm vang của con sông này. Dòng sông đưa anh lên đường tham gia kháng chiến và đón anh về:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Quang Dũng nhấn mạnh thêm một lần rằng sự ý chí đã qua đi là không thay đổi. Đó cũng là sự ý chí của riêng một dân tộc hay của một quốc gia. Bao mất mát, hy sinh của thời chiến tranh là những kỷ niệm không thể nào phai mờ. Sẽ không bao giờ còn có được thời kỳ khó khăn đến độ đó và cũng oai hùng ở mức nào. Sẽ cũng khó lòng mà có lại tập thơ Tây Tiến lần hai.
3. Phân tích tác phẩm Tây tiến của nhà thơ Quang Dũng:
Trong phong trào thơ ca cách mạng Việt Nam thời kỳ 1945-1954 Quang Dũng là một trong các nhà thơ tiêu biểu. Ông là một nhà thơ tài năng và nổi bật trên cả là mảng thơ văn với tuyển tập thơ lừng danh “Mây đầu ô”, trong đó đặc sắc hơn hết là bài thơ Tây Tiến. Bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ nhung của nhà thơ với núi rừng Tây Bắc kỳ vĩ mà lãng mạn và trữ tình:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Bài thơ mở đầu bằng một nỗi nhớ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Nhà thơ gọi tên sông Mã vì dòng sông chảy ở các tỉnh miền tây Thanh Hoá và là con sông đi cùng với chuyến hành trình của những chiến sĩ Tây Tiến. Vì thế mà theo cảm xúc của nhà thơ con sông trở thành một minh chứng lịch sử, một người bạn đồng hành trên khắp chuyến hành trình. Nhưng bây giờ “sông Mã đi rồi. ..” tất cả những ký ức của một thuở hoa lửa đã trôi dần vào dĩ vãng. Chỉ sự nhớ đến đồng đội cũng càng cháy bỏng và tươi mới hơn khi ấy để cuối cùng nhà thơ đã thốt nên “Tây Tiến ơi”. Nhà thơ gọi tên đoàn quân Tây Tiến như thể gọi tên từng người lính thân thuộc nhất của mình. Chỉ một chữ “ơi” thôi mà người ta đã thấy hết bao cảm xúc dồn nén, những sự nhớ và yêu da diết. mãnh liệt của nhà thơ. Song song với sự nhớ đến đoàn quân Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng thiên nhiên:
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Chỉ một bài thơ thôi nhưng với điệp từ “nhớ” Quang Dũng đã đánh thức bao xúc cảm của trái tim thi nhân. Nhà thơ nhớ về cảnh vật tự nhiên, nhớ những địa danh ghi dấu từng bước chân của đoàn quân Tây Tiến với nỗi nhớ “chơi vơi”. Quang Dũng thật tinh tế đã lấp kín hết các sắc thái tâm trạng và tình cảm của nỗi nhớ đó. “Nhớ chơi vơi” đó là cái nhớ không sắc nét, không mơ hồ và khó nhận biết, một sự nhớ mà chúng ta hoàn toàn có thể rời bỏ hiện tại để đắm chìm trong bao ký ức xưa. Trong dân gian cũng đã có nhiều sự nhớ y như thế:
Ra về nhớ mãi chơi vơi”
Hay Xuân Diệu cũng từng viết:
“Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
Đắm chìm mối nhớ “chơi vơi” trong khi Quang Dũng thì có sự xúc động rất mạnh và để lại trong tâm trí người xem một dấu ấn không phai nhoà. Hai câu thơ có một chút gì đấy nổi nhớ, hoài cổ khơi gợi dậy bao ký ức thiêng liêng. Ta như hiểu thêm tâm tư của một con người, Quang Dũng dương thì đang tách ra khỏi hiện thực để chìm đắm trong những mối nhớ “chơi vơi”.
Từ nỗi nhớ ấy, hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện về:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”
Các địa danh được đề cập đến trong đoạn thơ này đã từng có quan điểm cho biết: “ những tên đất, tên người, bao nhiêu chữ tên xướng lên cũng muốn khóc “,đó là nơi đã ghi lại dấu chân mà đoàn quân tây tiến đi qua mỗi một vùng đất và nó trở thành bằng chứng sống về cuộc hành trình của đoàn quân. Từ câu thơ trên chúng ta có thể thấy một cách rất rõ ràng về cuộc hành trình. Đoàn quân Từng đi giữa mây mù bao phủ của rừng núi, bóng người dường như mờ đi và ẩn trong màn sương huyền ảo. Mệt mỏi “sương lấp” do những thay đổi của nhiệt độ và thời tiết miền tây. Trong cả cuộc hành trình của bản thân con người đã đi qua sương dày và không thoát được sự mỏi mệt.
Nếu như câu thơ trên nhà thơ đặc tả hoàn cảnh khắc nghiệt của thời tiết thì câu dưới lại phác họa vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn người lính:
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Quang Dũng thật thông minh trong cách dùng từ. Nếu như mọi người bảo hoa nở thì thi sĩ đã dùng “hoa về” và “hoa về” là một dạng ẩn dụ độc khôn cùng. Những bông hoa nở giữa “đêm hơi” và lạ thay, lại không phải là đêm trăng? Mà nếu những đêm sương mù lạnh bạn sẽ không trông được hoa. Để rồi, thi sĩ đưa hoa về giữa “đêm hơi”. Với hai từ “đêm hơi” tôi đã mường tượng nên một khung cảnh đẹp kỳ ảo của rừng núi nơi đây. Trong không gian đó hoa muôn màu sắc hiện lên rực rỡ hơn và đẹp hơn. Hai câu thơ như hai bức hoạ đối lập thể hiện hai điểm nhấn của dải đất miền Tây khốc liệt thật đó nhưng cũng tươi đẹp lắm. Và dường như những anh bộ đội Tây Tiến chắc phải hảo tết hay lãng mạn lắm mới thể cảm thụ hết nét đặc sắc của rừng núi nơi đây, Những khắc nghiệt của điều kiện thiên nhiên không đánh mất được ở con người sự rung động trong mỗi trái tim. Như vậy, bốn câu đầu tiên của đoạn này đã diễn tả được tâm trạng của “Tây tiến” nhớ cảnh bao nhiêu lại nhớ mình bấy nhiêu, đó là nỗi nhớ bạn bè những con người đã cùng anh sát cánh và xông pha nơi chiến trường ác liệt.
“Dốc lên khúc khửu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xống
Nhà ai Pha Luông Mưa Xa khơi”
Bốn câu thơ được coi là những câu thơ đẹp nhất thể hiện nét tinh tế của Quang Dũng trong cảm âm, sắp xếp và dùng từ. Đồng thời cũng chính là bức tranh khắc hoạ cảnh thiên nhiên miền Tây hung vĩ và dữ dội như thế nào. Trong câu thơ thứ nhất mật độ âm trắc dày đã tạo ra sự gồ ghề và không bằng phẳng của các con chữ. Phải chăng chỉ là sự quanh co hiểm trở của con đường. Các cặp chữ “dốc” gợi hình những con dốc hiểm trở đầy gian nan và khó khăn như thế nào. Và nếu “khúc khửu” gợi hình con dốc hiểm trở quanh co hay “thăm thẳm” không những gợi độ cao mà gợi một chút gì đấy lạnh buốt từ độ cao của vách núi. Đường hành quân gian nan vô cùng, chúng ta dường như cảm nhận được từng nhịp chân gấp gáp và khó nhọc của những người lính. Họ hành quân trên đường trường sơn mà lại như thể đang lênh đênh giữa sóng nước, sống mũi cay chạm giời. Câu thơ không chỉ gợi độ cao mà có một chút gì đấy nghịch ngợm, hài hước và dí dỏm mang tính bộ đội. Con đường trước kia bỗng nhiên trở nên bằng phẳng, vẫn chưa thể xong:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Thước thơ có dấu phẩy trong câu thơ đẹp cũng là 1 thủ pháp hội hoạ và điều đó làm cho câu thơ được bẻ thành đôi giúp chúng ta tưởng tượng về một con đường với vô vàn khó khăn thử thách. Câu thơ được sáng tác với dụng ý nghệ thuật tương phản đặc biệt. Con đường như thế dài ngàn thước hay ngàn thước. .. Lên cao thì cao chót vót mà vực lại làm con người phải choáng váng bởi một bên là đồi cao dựng đứng một bên là núi sâu không lối thoát. Rõ ràng núi rừng tây bắc vô cùng bền bĩ, giống như thách thức sự dũng cảm và quyết tâm cao độ của người dân. Người chiến sĩ Tây Tiến phải thật kiên cường và quả cảm lắm mới bước qua được thử thách đó. Câu thơ dương như tả cảnh nhưng lại làm đậm nét tầm vóc ý chí của quân Tây đi.
Nếu như ba câu thơ trên được gieo nhiều thanh trắc thì câu dưới lại được tạo nên bởi hàng loạt thanh bằng:
“Nhà ai pha luông mưa xa khơi”
Những người lính Tây tiến đôi khi ngừng lại trên đường hành quân. Họ ngừng lại để hướng con mắt nhìn về các mái nhà của người dân quê mình trên những sườn đồi hay thung lũng sâu xa. Đâu đó trên đường đi, nhiều anh lính nhìn về các mái nhà thân thương ấy như đem đến cảm giác ấm áp tâm hồn đối với bao đứa con ở mặt trận xa xôi. Quang Dũng đã diễn tả khá chân thật cảnh chiến đấu của các anh lính. Như những tên đường, cái xóm ấy đã trở nên quá quen thuộc với bà con. Để rồi hình ảnh của anh lính hiện lên rất sống động.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Đã từng có người cho rằng, trong hai câu thơ này người lính gục sung mà ngủ nhưng cũng có ý kiến cho rằng người lính “không bước nữa” ấy là họ hi sinh. Đặt trong chỉnh thể ta nên hiểu những người lính đã hi sinh. Sự hi sinh ấy của họ thanh thản, nhẹ nhàng. Với họ chết chỉ là đôi bàn chân không bước nữa, chết chỉ là chìm sâu vào giấc ngủ. Người lính ở đây hi sinh trong tư thế hành quân: mũ vẫn trên đầu, sung vẫn cầm trên tay. Dường như ta đã từng bts gặp người lính hi sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ:
“Và anh chết khi đang đứng bắn
Máu anh phun như lửa đạn cầu vồng”
(Lê Anh Xuân)
Tuy chìm đắm trong tư thế hi sinh đẹp đẽ của những người lính nhưng hình ảnh cảnh sắc thiên nhiên miền tây bắc vẫn ám ảnh trong tâm trí nhà thơ:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Thiên nhiên miền tây được diễn tả thông qua thanh âm của tiếng hổ gầm như tiếng cọp ghẹo người trong hai câu thơ khơi gợi cái khốc liệt của nơi núi rừng và sâu cùng cốc. Cùng với các từ miêu tả thời tiết “chiều chiều, đêm đêm” người ta như thấu hiểu được sự vất vả khó khăn cực khổ những người lính Tây tiến đã vượt qua. Thiên nhiên miền tây bắc vốn khốc liệt bao nhiêu thì tinh thần người lính lại kiên cường bấy nhiêu. Quang Dũng sẽ kể lại chuyến hành trình của những người lính tây tiến từ trong lòng thấu hiểu của một người trẻ.
“Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Trên đường đi người chiến sĩ nhớ đến bát cơm ấm nghĩa tình anh em, nhớ những mùi vị của quân dân. Mùi thơm nếp xôi lan toả, ủ hương vào tâm hồn người dân. Dường như trong câu thơ của Quang Dũng chúng ta đều cảm nhận được mùi thơm của nếp xôi, kỉ niệm đã xa đi tưởng rằng chỉ là buồn một chút thôi. Hai câu thơ kết lại với hình tượng đèo cao núi sâu và mùi hương thơm của nếp xôi phảng phất sẽ tạo nên một khung cảnh đẹp trong phần sau:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo từ bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhác về Viên chăn xây hồn thơ”
Đêm lễ hội tràn đầy ánh sáng, ánh sáng của các ngọn nến và đoá hồng lửa màn đêm tràn đầy sắc màu, rực rỡ, rộn ràng thanh âm của tiếng khèn man điệu. Còn quang cảnh thiên nhiên miền tây với sự hoang vu lạnh lẽo của rừng núi thì bây giờ đây nó đã trôi qua, . Những người lính đang đắm chìm trong tiếng khèn man điệu, nghe các điệu nhảy rộn ràng và vui tươi. Giữa cảnh thiên nhiên trời đất ấy, anh lính Tây đã hiện lên với nét mặt hào hung và tài hoa:
“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm”
Hình ảnh người lính mới đã toát nên một cách toàn vẹn khi tác giả dùng cụm từ “ đoàn binh “với nhịp điệu thơ chắc khoẻ và đầy hào khí. Đoàn binh được mô tả một cách lạ lùng là “Tây tiến đoàn binh không có mái tóc” hay bệnh sốt rét đã khiến cho da của nhiều lính mới không phát triển được. “Quân xanh màu lá” cũng được dịch là sắc xanh của cây nguỵ trang hay bệnh sốt rét đã khiến cho da của nhiều lính trở nên nhợt nhạt. Phải chăng chúng ta cũng nên biết đấy chỉ là các biến chứng của bệnh sốt rét. Trên bước đường hành quân những người lính đã trải qua biết bao nơi nguy hiểm, vậy làm sao để thoát được bệnh sốt rét quái đản ấy.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Cái mộng ở đây chính là cái mộng chiến đấu lập công cho đất nước. Từ “Mắt trùng” gợi ý chí chiến đấu quyết tâm của người lính Tây tiến, khao khát được xả thân vì từng tấc đất của quê hương tổ quốc..ánh lên khát vọng hoài bão lớn lao của tuổi trẻ.
“Rải rác biên cương mộ viễn xứ”
Trong khi thơ thời kỳ kháng chiến diệt mỹ không bàn đến cái hy sinh mất mát thì Quang Dũng cũng nói rõ về vấn đề ấy, rằng chiến tranh đâu thoát được những tổn thất đau thương. Trong câu trên tác giả dùng những từ ngữ tiếng anh để tôn vinh sự hy sinh của người lính. Trên biên giới của tổ quốc có biết bao nhiêu nấm mồ như thế. Những chàng lính tây tiến là các anh lính thầm lặng nhưng họ đã xây dựng nên tổ quốc. Chính vì thế ý thơ không chùng đi mà lại hào sắc thêm vào các câu sau:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Câu thơ nói đến vẻ đẹp đẽ trong cách sống của những lính tây bắc, nhiều anh đã hiến dâng cuộc đời mà không bao giờ tiếc cho khúc ca của tổ quốc của mình: “chẳng tiếc” vừa gợi tính ngang tình, ngạo nghễ, bất cần, câu thơ như thể một câu nói cửa miệng của người lính. Những anh đã mất rồi, đã sống theo lý tưởng ử để tổ quốc sinh ra là Vũ Xuân, là Đặng Thuỳ Trâm:
“Chúng tôi đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi 20 làm sao chẳng tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20
Thì làm gì còn tổ quốc”
(Trường ca những người đi tới biển)
Những người lính đã hi sinh vì phương châm ấy, bởi vậy Quang Dũng đã tiễn đưa họ:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Tây tiến gầm lên khúc độc hành”
“Áo bào” chính là tấm quan mà nhà vua dành tặng binh lính trước lúc ra mặt trận. Với các anh lính tây thì không bao giờ có áo bào quấn người lúc liệm. Trong tưởng tượng của Quang Dũng thì những anh trở với quê mẹ bằng tấm áo giáp trang trọng của chiến binh xưa. Chiếc áo bào đó đã làm nên sang trọng cho xác của anh lính và cả người đồng đội đang sống. Bài viết không có một chút uỷ mị, yếu đuối và đau buồn cho dù là kể lại những hy sinh mất mát. Những người lính trở với quê mẹ không có cái lạnh của con sông Mã:
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Trong văn tế a sĩ Cần Duộc và văn tế Trương Quỳnh Như là tiếng khóc của con người giành lại con người chứ không phải Quang Dũng nói đến tiếng khóc của thiên nhiên. Đây cũng là khúc ca anh hung tử, một nghi lễ đưa tiễn vô cùng linh thiêng. Không phải là tiếng khóc của con người mà là tiếng khóc của thiên nhiên trước những gì mà các anh đã làm nên để tồn tại. Những người lính Tây cũng hiểu nếu không đi sẽ có ngày trở lại, sẽ phải đối mặt với con đường mòn thẳm và chia cắt nhưng chỉ đi khi tổ quốc cần đến.
Quang Dũng đã viết về anh bộ đội tây bắc với cả nỗi buồn, niềm vui, lòng cảm phục và sự ngưỡng mộ lẫn niềm xót xa nuối tiếc. Thơ viết với phong cách hiện thực và trữ tình nhưng nghiêng nhiều về cảm xúc. Bài viết tinh tế trong cách tạo dựng hình tượng, bố cục, hoà thanh và ngắt nhịp. Hoà bình đã làm sống dậy trong trái tim người việt một thời không thể lãng quên của đất nước. Làm Tây tiến bạn sẽ yêu hơn nét đẹp của hình ảnh những chiến sĩ diệt mỹ, thấu hiểu hơn lịch sử dân tộc mình một thời khói lửa, biết thêm ý nghĩa của hoà bình của nỗi mất mát hy sinh khiến chúng ta quý trọng hơn từng ngày đang ở nơi độc lập và tự do này.
THAM KHẢO THÊM: