Hồ Chí Minh là nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc. Bài thơ Rằm tháng Giêng của Bác được đưa vào chương trình Ngữ văn lớp 7. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu những bài phân tích hay nhất qua bài viết dưới đây nhé!
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích bài thơ Rằm tháng Giêng của Hồ Chí Minh:
1.1. Mở bài:
Giới thiệu về tác giả Hồ Chí Minh.
Giới thiệu về bài thơ “Rằm tháng giêng”.
1.2. Thân bài:
1. Thiên nhiên:
– Hình ảnh ánh trăng: “vầng trăng chính viên” – trăng lúc tròn nhất.
=> Không gian bao la, tràn ngập ánh trăng.
– Sức sống của mùa xuân: “Giang xuân, nước xuân, trời xuân”
=> Ba từ “xuân” nối tiếp nhau thể hiện sức xuân, sắc xuân đang lên. Khung cảnh tràn đầy sức sống.
=> Hai câu đầu miêu tả một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, bao la, rộng lớn và tràn đầy sức sống trong đêm rằm mùa xuân.
2. Hình ảnh con người trong đêm trăng ở chiến khu
– Tác phẩm: “quân đàm” – bàn việc quân nghĩa là bàn việc kháng chiến, bàn việc sinh tử của quốc gia.
– Hình ảnh “con thuyền trăng rằm”: gợi ánh trăng trải rộng trong đêm rằm và qua đó thể hiện ý chí, khát vọng vươn tới thành công trong sự nghiệp cách mạng.
=> Hai câu thơ cuối thể hiện phong thái điềm tĩnh, lạc quan, luôn tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ và tâm hồn đồng cảm, hòa hợp với thiên nhiên của Bác.
1.3. Kết bài:
Đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật
2. Phân tích bài thơ Rằm tháng giêng của Hồ Chí Minh hay nhất:
Bài thơ “Nguyên tiêu” (Rằm tháng giêng) là một trong những bài thơ nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đoạn thơ tả cảnh thiên nhiên núi rừng
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên;
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”
Có lẽ hình ảnh ánh trăng không còn xa lạ trong thơ ca. Ta đã từng thấy ánh trăng trong thơ Lý Bạch:
“Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.”
(Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương)
Ánh trăng trong thơ Lý Bạch dường như mang một nỗi nhớ quê hương da diết. Trong “Rằm tháng Giêng” của Hồ Chí Minh, ánh trăng mang một ý nghĩa khác.
Nhà thơ đã xây dựng hình ảnh vầng trăng đêm rằm tháng Giêng với vẻ đẹp “trăng ngay” – đó là lúc trăng tròn nhất, sáng nhất. Ánh trăng đêm rằm vốn đã đẹp nhưng ánh trăng đêm rằm tháng giêng là đẹp nhất. Không chỉ vậy, sắc xuân từ ánh trăng như đang bao trùm lên mọi cảnh vật, làm cho “sông xuân”, “nước xuân”, “trời xuân thêm xuân”. Điệp từ “mùa xuân” được lặp lại ba lần như để khẳng định sắc xuân đang lan tỏa khắp không gian. Không gian ấy mở rộng ra cả ba chiều: chiều cao, chiều rộng và chiều sâu làm cho khung cảnh thiên nhiên rộng lớn hơn chứ không bị thu hẹp lại. Sự tiếp nối giữa “sông xuân”, “nước xuân” và “trời xuân” còn gợi vẻ đẹp giao hòa giữa đất trời tràn ngập ánh trăng.
Trong bức tranh thiên nhiên thơ mộng ấy, người chiến sĩ cách mạng vẫn không quên một nhiệm vụ quan trọng. Trong những năm chiến tranh, mọi hoạt động cách mạng đều phải diễn ra âm thầm, kín đáo. Vì vậy, các chiến sĩ cách mạng đã chọn thời điểm đêm khuya để bàn việc quân sự của đất nước. Vì mải mê thảo luận, họ dường như quên mất thời gian, và chỉ nhận ra rằng công việc đã kết thúc vào đêm khuya. Và ánh trăng cũng sáng nhất vào thời điểm này. Hình ảnh “con thuyền” là hình ảnh ẩn dụ chỉ thắng lợi của cách mạng. Con thuyền tràn ngập ánh trăng như thể ngày cách mạng không còn xa. Đó là niềm tin của Bác Hồ vào cuộc đấu tranh của dân tộc.
Như vậy, bài thơ “Rằm tháng Giêng” đã khắc họa bức tranh thiên nhiên đêm rằm tháng Giêng đầy thơ mộng và tình yêu đất nước sâu sắc của Hồ Chí Minh. Không chỉ vậy, người đọc còn thấy được một hồn thơ tinh tế, nhạy cảm của Bác.
3. Phân tích bài thơ Rằm tháng giêng của Hồ Chí Minh đạt điểm nhất:
Bài thơ “Rằm tháng giêng” được Bác Hồ viết vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đoạn thơ không chỉ khắc họa hình ảnh thiên nhiên của chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng mà còn thể hiện tình yêu thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm cũng như lòng yêu nước sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh ánh trăng trong đêm ở chiến khu Việt Bắc:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên”
(Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất)
Hình ảnh ánh trăng đêm rằm tháng giêng được nhà thơ miêu tả là “vầng trăng tròn” (trăng tròn nhất). Ánh trăng lúc này như bao trùm cả cánh rừng Việt Bắc làm cho cảnh vật ấm áp hơn. Đến những câu thơ tiếp theo, hình ảnh thiên nhiên càng đẹp hơn:
“Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên”
(Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân)
Ba chữ “xuân” nối tiếp nhau tượng trưng cho sức sống, sắc xuân bừng nở khắp mọi không gian. Điệp từ “còn tiếp” gợi cho người đọc cảm giác dường như đất trời đang giao hòa với nhau bởi sắc xuân rực rỡ. Như vậy, hai dòng đầu của bài thơ đã khắc họa bức tranh thiên nhiên trong đêm rằm tháng giêng.
Hai câu thơ tiếp theo hiện lên hình ảnh người quân tử với công việc cao cả:
“Yên ba thâm sứ đàm quân sự”
(Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân)
Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, mọi hoạt động cách mạng đều phải diễn ra âm thầm, kín đáo. Vì vậy, Bác Hồ và các chiến sĩ mới đã chọn thời điểm đêm khuya để bàn việc quân, là những công việc hệ trọng liên quan đến vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Và cuối cùng, bài thơ kết thúc bằng một câu thơ:
“Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”
(Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền)
Có phải vì quá mải mê thảo luận quân sự nên đến tận đêm khuya Bác mới trở về? Lúc này, ánh trăng cũng sáng hơn bao giờ hết. Hình ảnh “con thuyền trăng rằm” muốn thể hiện sức lan tỏa mạnh mẽ của ánh trăng trong đêm rằm tháng giêng. Qua đó, Bác muốn bày tỏ khát vọng thành công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Qua hai câu thơ sau, người đọc thấy được phong thái ung dung, lạc quan và niềm tin bất diệt của Người vào sự nghiệp giải phóng dân tộc nhất định sẽ thắng lợi.
“Rằm tháng giêng” là bài thơ được viết theo thể thơ tứ tuyệt, cổ điển. Thiên nhiên trong bài thơ được miêu tả bằng những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc trong thơ cổ như ánh trăng, dòng sông, đất trời, con thuyền. Cùng với sự kết hợp giữa ngụ ngôn và điệp ngữ, nhà thơ đã miêu tả bức tranh đêm trăng ở chiến khu Việt Bắc vô cùng sinh động.
Qua đoạn thơ trên, ta thấy được không chỉ một hồn thơ đa sầu đa cảm mà còn là một con người kiên cường, trung thành với cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
3. Phân tích bài thơ Rằm tháng giêng của Hồ Chí Minh ấn tượng nhất:
Rằm tháng Giêng là bài thơ nổi tiếng của Bác Hồ viết vào ngày rằm tháng Giêng năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc. Đoạn thơ thể hiện sự tinh tế của Bác trong cách cảm nhận cảnh sắc thiên nhiên, tâm hồn thi nhân, tâm hồn chiến sĩ.
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên”
Người ta có thể tưởng tượng bầu trời cao, rộng và trong vắt, nổi bật bởi ánh trăng sáng. Tranh của Bác thiên về gợi nhiều hơn tả, cảnh được vẽ bao la, ít phác họa đơn giản, Bác chú ý đến toàn cảnh mà ít đi vào tả chi tiết, cụ thể, đây cũng là cách miêu tả phổ biến trong tranh. trong thơ cổ điển. Cả khổ thơ thứ hai tràn đầy sức sống mùa xuân, câu thơ mở rộng ra cả hai chiều, chiều rộng của Xuân Giang và chiều cao của Xuân Thiên, khiến cho khung cảnh càng thêm khoáng đạt, rộng rãi. Đồng thời, việc sử dụng ba từ xuân liên tiếp cũng cho thấy sức sống mùa xuân đang lan tỏa khắp nơi. Bác như một vị khách, ung dung tận hưởng không khí xuân nhẹ nhàng thanh bình.
Nhưng thật bất ngờ, trong không khí đó lại diễn ra cuộc họp bàn việc quân, việc quốc sự: Yên ba hội nghị quân sự. So với nguyên bản, ta thấy bản dịch thơ đã dịch thiếu chữ “yên ba” có nghĩa là khói và sóng. Việc lược bỏ các phép đối đã làm mất đi tính chân thực, huyền bí của không gian đêm khuya.
Trong hoàn cảnh cả nước đang kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, ta càng thấy rõ tinh thần bình tĩnh, chủ động, lạc quan của người lãnh đạo. Dù ngày đêm lo nước, Bác vẫn rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Phong thái điềm đạm còn thể hiện ở câu thơ cuối: Ngày bán nguyệt người lái đò. Thuyền Bác sau khi bàn việc quân sự tràn ngập ánh trăng, lướt nhẹ như thuyền trăng.
Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và phong cách hiện đại. Những bài thơ cổ như con thuyền, vầng trăng,… đã biến Bác trở thành một nhà thơ hòa mình vào thiên nhiên. Không gian của núi quân sự đầy hiện đại. Sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, các từ láy ít nhiều có ý tứ, tạo nên sức truyền cảm cho ngôn từ, hình ảnh.
Đoạn thơ với ngôn ngữ cô đọng, chắt lọc cho ta thấy Bác Hồ ở những chiều kích khác nhau. Đó là tâm hồn yêu thiên nhiên, rung động trước vẻ đẹp của vạn vật khi mùa xuân về. Không những thế, đó còn là tâm hồn của một người lính, luôn ngày đêm lo lắng cho sự nghiệp cứu nước, nhưng trên hết vẫn thể hiện một thái độ bình tĩnh, lạc quan trong cuộc sống gian khổ của cuộc kháng chiến.