Tình bà cháu được thể hiện sâu sắc trong tác phẩm Đò Lèn là những lời ngọt ngào, sâu lắng từ trái tim của tác giả. Phân tích bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy chọn lọc hay nhất mời bạn đọc tham khảo.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy:
1.1. Mở bài:
Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm
1.2. Thân bài:
– Hình ảnh người bà tảo tần hiện lên trong kí ức của người cháu
– Sự thức tỉnh nhưng đã muộn màng của người cháu.
1.3. Kết bài:
– Khái quát giá trị nội dung bài thơ và nêu cảm nhận của em
2. Phân tích bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy chọn lọc:
Nguyễn Duy là nhà thơ có nhiều đóng góp cho nền thơ ca Việt Nam, bản thân tác giả sớm mồ côi cha mẹ nên những hiểu biết từ thuở ấu thơ rất gần gũi và đọng mãi trong đời. Chính vì vậy, những cảm xúc đó đã thôi thúc ông sáng tác bài thơ Đò Lèn.
Trong kí ức tuổi thơ là hình ảnh hương hoa huệ ngào ngạt quyện với mùi phảng phất trong không gian quanh chùa Trần, tác giả đã nói về nỗi nhớ nhung quá khứ của mình. Bây giờ tác giả nhớ lại thì chỉ còn là hoài niệm, và giữa những hình ảnh khác có một hình ảnh thật cảm động, dạt dào cảm xúc và nỗi nhớ nhung vô tận về mối tình thuở ấu thơ :
Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng
Nhà văn nhớ và nhớ lại những kỉ niệm tuổi thơ, tất cả những hình ảnh, kí ức tuổi thơ của mình. Tác giả đã miêu tả bài thơ chuyển tải với nhịp điệu nhẹ nhàng mà vô cùng nghiêm trang làm cho mỗi chúng ta bồi hồi trong kí ức, một hình ảnh tuổi thơ ùa về trong tâm trí tác giả, và hàng loạt hình ảnh khác đọng lại cũng vô cùng thiêng liêng với tác giả, sớm mồ côi cha mẹ nên tác giả phải ở cùng với người bà, một hình ảnh gắn bó với người bà cũng hiện lên trong kí ức của tác giả:
Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
Bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
Bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn
Kỉ niệm của tác giả về người bà là một người bà cần cù, chịu thương chịu khó, cả đời bươn chải kiếm tiền nuôi các cháu ăn học. Dù cuộc sống của 2 bà cháu vô cùng khó khăn nhưng người bà này vẫn đi làm để nuôi cháu, bức ảnh này chứa đầy tinh thần của người bà, trong những ngày gió lạnh, bà vẫn hàng chục bước đi kiếm tiền nuôi cháu, thỉnh thoảng bắt cua và cá hàng ngày để nuôi các cháu, nỗi nhớ người bà khiến nhà văn nhớ đến kỉ niệm của hai bà cháu, tác giả mong và nhớ. Quãng thời gian ở bên bà, hình ảnh người bà hàng ngày phải vất vả mưu sinh đã khiến nhà văn nhìn nhận cuộc sống của chính mình sâu sắc hơn. Nhiều chi tiết được thể hiện sâu sắc qua bài viết, qua đó bộc lộ nỗi nhớ và nhiều cảm xúc dâng lên trong tâm hồn người viết, người viết nhớ và có những kỉ niệm đẹp về người bà. Sự chăm chỉ, cần cù ấy của bà khiến cho đến bây giờ khi nhớ lại người viết đã cảm hóa trước niềm tin của bà và muốn đền đáp công ơn dưỡng dục của bà.
Trong những kí ức đẹp đẽ ấy, tác giả nhớ nhung, mong nhớ về người bà trong cảm xúc của mình, tác giả nhớ về những hình ảnh quen thuộc, gần gũi trong tâm hồn con người, dường như tác giả đang cố gợi lại những kỉ niệm ấy, bởi kỉ niệm này thật đẹp của những ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn con người, nhiều hình ảnh đẹp gợi cảm và vô cùng mạnh mẽ đã gây được nhiều sự chú ý, đồng thời cũng là sự sâu lắng của tác giả, tác giả tạo nên những cung bậc khác nhau và mang dấu ấn đậm nét trong tâm hồn tác giả nhiều khó khăn, thử thách gian nan trong cuộc đời người bà thầm lặng và hi sinh tính mạng để cháu mình làm nên những điều kì diệu, tác giả thấy được:
Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn
Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!
Cảm xúc của nhà thơ được thể hiện một cách chân thực và nó đã ăn sâu vào tâm hồn của nhà văn, ông như nói về những kỉ niệm ấy để nhớ nhung và bồi hồi một niềm tiếc nuối nhỏ nhoi trong quá khứ. Cũng chính sự níu kéo đó tạo nên cung bậc cảm xúc riêng và sâu lắng trong lòng tác giả, một nỗi nhớ sâu kín và thầm kín là một nỗi nhớ về quá khứ, trong chúng ta không ai là không có những kỉ niệm tuổi thơ. Chính xác và biểu cảm hơn, tác giả đã thể hiện hình ảnh người bà và hàng loạt hình ảnh liên quan đến tuổi thơ của tác giả , nỗi nhớ da diết ấy đã khắc sâu trong tâm trí mỗi người.
Những lời luyến tiếc tiếc nuối về quãng thời gian đã qua thể hiện sâu sắc trong tâm hồn của tác giả, ông dường như rất tiếc nuối những quãng thời gian đã qua, điều này còn được thể hiện qua nhiều bức tranh khác. Bài thơ thể hiện sâu sắc những hình ảnh sống động và nhiều chi tiết đáng nhớ, mỗi chúng ta có quyền tự hào về những kỷ niệm của mình, nhưng tất nhiên chúng ta cũng có những khoảnh khắc của mình. Tiếc nuối những gì đã qua, những gì người viết nuối tiếc trong câu thơ này đã qua, nhưng người viết không thể hình dung được những kỉ niệm tuổi thơ lại vang vọng trong tâm hồn mình đến thế, có sức hút mãnh liệt và tạo nên nhiều khoảng riêng, sâu lắng trong tâm hồn con người.
Tình bà cháu được thể hiện sâu sắc trong tác phẩm này là những lời ngọt ngào, sâu lắng từ trái tim của tác giả.
3. Phân tích bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy hay nhất:
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng có nhận xét thú vị đối với nhà thơ Nguyễn Duy: “Hình hài Nguyễn Duy giống như đám đất hoang, còn thơ Nguyễn Duy là thứ cây quý mọc trên đám đất hoang đó”. Có thể nói, thơ Nguyễn Duy khá đặc biệt, bởi ở những vần thơ ngang tàng, phóng khoáng, hồn nhiên, tưởng như không chút suy tư, nhưng ẩn sâu bên trong lại là những ý nghĩa chiêm nghiệm sâu sắc về chính cuộc đời. tâm hồn rồi chợt vỡ òa, khiến người ta liên tưởng đến những chuyến du hành, những cảm xúc của những năm tháng đã qua. Nhưng rồi đến với Đò Lèn, người ta lại càng nghĩ nhiều hơn về cả những khó khăn của người bà trong những năm tháng chiến tranh khắc nghiệt và tuổi thơ hồn nhiên vô lo của đứa cháu. Rồi khi lớn lên, khi trưởng thành, chinh chiến nơi xa, khi đất nước độc lập, bà đã ra đi, cháu dù có cũng đã muộn màng.
Nguyễn Duy từng là một người lính thông tin tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước nên hình ảnh người lính thường xuyên trở lại trong thơ ông, nhất là về đề tài chiến tranh với quê hương. Ở đó, ông không đi tìm những vẻ đẹp oai hùng, anh hùng mà Nguyễn Duy thường chú ý đến những vẻ đẹp giản dị, bình dị ăn sâu vào từng kí ức tuổi thơ, những khó khăn của người nông dân lao động và những khó khăn trong kháng chiến. Còn ở Đò Lèn cả bài thơ là một miền kí ức tươi vui, hồn nhiên nhưng cũng chất chứa bao kỉ niệm của một thời chiến tranh khốc liệt. Tuy nhiên, đọc thơ Nguyễn Duy không phải buồn mà là suy tư, ngẫm nghĩ nên giọng thơ rất đẹp, dù đôi khi hiện thực vô cùng phũ phàng, ông cũng dùng giọng thơ hóm hỉnh để che giấu. Qua Đò Lèn, kí ức của Nguyễn Duy mà hai khổ thơ đầu là tuổi thơ của nhà văn qua những năm tháng rong ruổi, rất hồn nhiên, chân chất:
“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”
Có thể nói, qua kí ức của Nguyễn Duy, nhà thơ đã có một tuổi thơ vô cùng đẹp đẽ, đúng nghĩa là hình ảnh một cậu bé tinh nghịch, mải miết lang thang khắp xóm làng, vừa “câu cá” vừa “bắt chim”, đôi khi có cả ‘ăn trộm”, cũng rất thích chạy chơi chỗ đông người, ưa thích ăn quà vặt nên mới “níu váy bà đi chợ”. Các đền Sòng, chợ Bình Lâm, địa danh cống Na, chùa Trần, đền Cây Thị, Cảm giác nó rất gần gũi và gắn bó với tuổi thơ của tác giả, đầy ắp văn hóa làng xã, cộng đồng ở Việt Nam – cái đã làm nên đất nước phù hợp với phong cách triết luận của
“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”
Nguyễn Duy thốt lên vơi sự hối hận xót xa “Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế”, Không thể trách được, bởi đứa trẻ đang tuổi ăn tuổi lớn có sự già dặn, trong sáng, ngây thơ và bản tính ham chơi, nghịch ngợm. Hình ảnh người bà tiêu biểu cho đức hi sinh, chịu thương chịu khó, sẻ đôi vai gầy gánh vác mọi gánh nặng, một lòng vì con cháu của người phụ nữ Việt Nam xưa. Có lẽ hình dáng tình cảm của người bà và của Nguyễn Duy trong đoạn thơ này cũng giống như bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc” đó là tấm lòng yêu thương, trân trọng và cảm thương. xa những vất vả mà bà tôi phải trải qua cả đời để cháu bà có một tuổi thơ êm đềm, hạnh phúc và vô tư. Trong mắt Nguyễn Duy, tình bà của ông thật ấm áp, dịu dàng và thánh thiện vô cùng.
“Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm”
Nguyễn Duy đang đứng giữa “bờ hư-thực” nghĩ về bà của mình, bà luôn luôn cho cháu tình cảm yêu thương vô bờ . Bà cho cháu “củ dong riềng luộc sượng” trong những năm tháng đói mòn, đói mỏi, ôi sao mà ngon thế cái tình thân yêu “mùi huệ trắng hương trầm” quẩn quanh tràn về trong ký ức.Hương hoa huệ trắng hai lần trở lại trong bài thơ, như một vòng tay ôm lấy tuổi thơ nghèo khó, nhưng tình cảm của Nguyễn Duy như tình yêu, như đôi mắt hiền từ, độ lượng :
“Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”
Chỉ một từ “bay” nhẹ thế thôinhưng cũng đủ diễn tả cảnh làng quê bị tàn phá không còn gì, để bật cười thành tiếng với câu thơ rất hồn nhiên “thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết”. Mọi thứ đã qua hay đã mất, nhưng bà vẫn còn đó, bà vẫn mạnh mẽ hơn cả nhà cửa, mạnh mẽ hơn cả thánh, Phật vẫn ở đây để mưu sinh, bà vẫn “đi bán trứng ở ga Lèn” ,nuôi đứa cháu ngoại thơ dại. Thời gian trôi qua, khi tôi lớn lên và đi chiến trường, tôi mới thấy thương dáng hình người bà cần cù, bền bỉ mà khi cháu trở về đã lâu chỉ còn nấm mồ xanh. Nguyễn Duy về với quê hương, về với bà ngoại, về với những làng quê thân thuộc của tuổi thơ, mọi thứ đã thay đổi và người bà không còn ở đó nữa.
“Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi”
Cảm giác nhìn dòng sông xanh ghi dấu quê hương, chiến tranh đã qua đi, quê hương đã trở về với vẻ yên bình tự nhiên, và sự hối hận muộn màng vì đã không thể biết trân trọng và yêu thương Nay bà đã về cõi thần tiên, dưới gối Phật, để lại cây nấm xanh khiến người viết ân hận, tiếc nuối, tiếc nuối một thuở quá cẩu thả không để ý đến mắt đã đờ đẫn. Lưng đã mỏi, bàn tay cũng chai sần theo năm tháng. Khổ thơ cuối của bài thơ Nguyễn Duy chợt đánh thức tâm hồn người đọc, khiến mỗi chúng ta phải suy nghĩ, tự hỏi mình đã thực sự quý trọng, yêu thương những người thân yêu, những người bên cạnh mình chưa. Và mang một triết lý nhân văn vô cùng sâu sắc: “Hãy học cách trân trọng và biết ơn những gì bạn có trước khi thời gian dạy bạn biết trân trọng những gì bạn từng có”.