Tình bà cháu được thể hiện sâu sắc trong tác phẩm Đò Lèn là những lời ngọt ngào, sâu lắng từ trái tim của tác giả. Phân tích bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy chọn lọc hay nhất mời bạn đọc tham khảo.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy:
1.1. Mở bài:
Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm
1.2. Thân bài:
– Hình ảnh người bà tảo tần hiện lên trong kí ức của người cháu
– Sự thức tỉnh nhưng đã muộn màng của người cháu.
1.3. Kết bài:
– Khái quát giá trị nội dung bài thơ và nêu cảm nhận của em
2. Phân tích bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy ngắn nhất:
Bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy, được viết vào năm 1983 khi tác giả trở về quê nhà. Tác phẩm là một dòng hồi tưởng của tác giả về tuổi thơ xen lẫn vui buồn và chiến tranh. Tác phẩm là sự kết hợp giữa những kỉ niệm tuổi thơ hồn nhiên và những nỗi đau, ân hận khi tác giả nhớ về người bà của mình.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Duy gợi lên những hình ảnh tuổi thơ vô tư và tinh nghịch: câu cá, bắt chim, đi chợ cùng bà và thậm chí là ăn trộm nhãn. Những hình ảnh đó không chỉ thể hiện nét tính cách hiếu động của tác giả khi còn bé, đồng thời cũng thể hiện sự gắn kết mật thiết giữa tác giả và bà ngoại.
Thế nhưng, khi lớn lên, tác giả mới nhận ra những vất vả của bà. Bà không chỉ phải mò cua, xúc tép mà còn phải gánh chè, bán trứng để nuôi cháu khôn lớn. Nguyễn Duy xót xa khi thốt lên rằng mình đã không hề nhận ra những cơ cực ấy khi còn nhỏ.
Trong cuộc chiến tranh tàn khốc, bom đạn phá tan chùa chiền và nhà cửa, nhưng người bà vẫn kiên cường chống chọi, không khuất phục trước hoàn cảnh. Đến khi tác giả đi lính trở về, nỗi đau và ân hận đã vỡ òa khi người bà thân yêu chỉ còn lại một nấm cỏ xanh.
Bằng ngôn từ giản dị, chân thành, bài thơ “Đò Lèn” không chỉ là một hồi ức tuổi thơ mà còn là một lời tri ân, một sự hối tiếc muộn màng của tác giả trước tình yêu thương vô bờ bến của người bà đã khuất.
3. Phân tích bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy hay nhất:
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng có nhận xét thú vị đối với nhà thơ Nguyễn Duy: “Hình hài Nguyễn Duy giống như đám đất hoang, còn thơ Nguyễn Duy là thứ cây quý mọc trên đám đất hoang đó”. Có thể nói, thơ Nguyễn Duy khá đặc biệt, bởi ở những vần thơ ngang tàng, phóng khoáng, hồn nhiên, tưởng như không chút suy tư, nhưng ẩn sâu bên trong lại là những ý nghĩa chiêm nghiệm sâu sắc về chính cuộc đời. tâm hồn rồi chợt vỡ òa, khiến người ta liên tưởng đến những chuyến du hành, những cảm xúc của những năm tháng đã qua. Nhưng rồi đến với Đò Lèn, người ta lại càng nghĩ nhiều hơn về cả những khó khăn của người bà trong những năm tháng chiến tranh khắc nghiệt và tuổi thơ hồn nhiên vô lo của đứa cháu. Rồi khi lớn lên, khi trưởng thành, chinh chiến nơi xa, khi đất nước độc lập, bà đã ra đi, cháu dù có cũng đã muộn màng.
Nguyễn Duy từng là một người lính thông tin tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước nên hình ảnh người lính thường xuyên trở lại trong thơ ông, nhất là về đề tài chiến tranh với quê hương. Ở đó, ông không đi tìm những vẻ đẹp oai hùng, anh hùng mà Nguyễn Duy thường chú ý đến những vẻ đẹp giản dị, bình dị ăn sâu vào từng kí ức tuổi thơ, những khó khăn của người nông dân lao động và những khó khăn trong kháng chiến. Còn ở Đò Lèn cả bài thơ là một miền kí ức tươi vui, hồn nhiên nhưng cũng chất chứa bao kỉ niệm của một thời chiến tranh khốc liệt. Tuy nhiên, đọc thơ Nguyễn Duy không phải buồn mà là suy tư, ngẫm nghĩ nên giọng thơ rất đẹp, dù đôi khi hiện thực vô cùng phũ phàng, ông cũng dùng giọng thơ hóm hỉnh để che giấu. Qua Đò Lèn, kí ức của Nguyễn Duy mà hai khổ thơ đầu là tuổi thơ của nhà văn qua những năm tháng rong ruổi, rất hồn nhiên, chân chất:
“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”
Có thể nói, qua kí ức của Nguyễn Duy, nhà thơ đã có một tuổi thơ vô cùng đẹp đẽ, đúng nghĩa là hình ảnh một cậu bé tinh nghịch, mải miết lang thang khắp xóm làng, vừa “câu cá” vừa “bắt chim”, đôi khi có cả ‘ăn trộm”, cũng rất thích chạy chơi chỗ đông người, ưa thích ăn quà vặt nên mới “níu váy bà đi chợ”. Các đền Sòng, chợ Bình Lâm, địa danh cống Na, chùa Trần, đền Cây Thị, Cảm giác nó rất gần gũi và gắn bó với tuổi thơ của tác giả, đầy ắp văn hóa làng xã, cộng đồng ở Việt Nam – cái đã làm nên đất nước phù hợp với phong cách triết luận của
“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”
Nguyễn Duy thốt lên vơi sự hối hận xót xa “Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế”, Không thể trách được, bởi đứa trẻ đang tuổi ăn tuổi lớn có sự già dặn, trong sáng, ngây thơ và bản tính ham chơi, nghịch ngợm. Hình ảnh người bà tiêu biểu cho đức hi sinh, chịu thương chịu khó, sẻ đôi vai gầy gánh vác mọi gánh nặng, một lòng vì con cháu của người phụ nữ Việt Nam xưa. Có lẽ hình dáng tình cảm của người bà và của Nguyễn Duy trong đoạn thơ này cũng giống như bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc” đó là tấm lòng yêu thương, trân trọng và cảm thương. xa những vất vả mà bà tôi phải trải qua cả đời để cháu bà có một tuổi thơ êm đềm, hạnh phúc và vô tư. Trong mắt Nguyễn Duy, tình bà của ông thật ấm áp, dịu dàng và thánh thiện vô cùng.
“Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm”
Nguyễn Duy đang đứng giữa “bờ hư-thực” nghĩ về bà của mình, bà luôn luôn cho cháu tình cảm yêu thương vô bờ . Bà cho cháu “củ dong riềng luộc sượng” trong những năm tháng đói mòn, đói mỏi, ôi sao mà ngon thế cái tình thân yêu “mùi huệ trắng hương trầm” quẩn quanh tràn về trong ký ức.Hương hoa huệ trắng hai lần trở lại trong bài thơ, như một vòng tay ôm lấy tuổi thơ nghèo khó, nhưng tình cảm của Nguyễn Duy như tình yêu, như đôi mắt hiền từ, độ lượng :
“Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”
Chỉ một từ “bay” nhẹ thế thôinhưng cũng đủ diễn tả cảnh làng quê bị tàn phá không còn gì, để bật cười thành tiếng với câu thơ rất hồn nhiên “thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết”. Mọi thứ đã qua hay đã mất, nhưng bà vẫn còn đó, bà vẫn mạnh mẽ hơn cả nhà cửa, mạnh mẽ hơn cả thánh, Phật vẫn ở đây để mưu sinh, bà vẫn “đi bán trứng ở ga Lèn” ,nuôi đứa cháu ngoại thơ dại. Thời gian trôi qua, khi tôi lớn lên và đi chiến trường, tôi mới thấy thương dáng hình người bà cần cù, bền bỉ mà khi cháu trở về đã lâu chỉ còn nấm mồ xanh. Nguyễn Duy về với quê hương, về với bà ngoại, về với những làng quê thân thuộc của tuổi thơ, mọi thứ đã thay đổi và người bà không còn ở đó nữa.
“Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi”
Cảm giác nhìn dòng sông xanh ghi dấu quê hương, chiến tranh đã qua đi, quê hương đã trở về với vẻ yên bình tự nhiên, và sự hối hận muộn màng vì đã không thể biết trân trọng và yêu thương Nay bà đã về cõi thần tiên, dưới gối Phật, để lại cây nấm xanh khiến người viết ân hận, tiếc nuối, tiếc nuối một thuở quá cẩu thả không để ý đến mắt đã đờ đẫn. Lưng đã mỏi, bàn tay cũng chai sần theo năm tháng. Khổ thơ cuối của bài thơ Nguyễn Duy chợt đánh thức tâm hồn người đọc, khiến mỗi chúng ta phải suy nghĩ, tự hỏi mình đã thực sự quý trọng, yêu thương những người thân yêu, những người bên cạnh mình chưa. Và mang một triết lý nhân văn vô cùng sâu sắc: “Hãy học cách trân trọng và biết ơn những gì bạn có trước khi thời gian dạy bạn biết trân trọng những gì bạn từng có”.