Cảnh Khuya là một trong những bài thơ hay của Bác viết trong những đêm trằn trọc không ngủ được vì lo cho nước nhà. Cùng chúng tôi tham khảo những bài phân tích Cảnh khuya để có thể thấu hiểu được tấm lòng của Bác nhé
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh ngắn gọn nhất:
1.1. Mở bài:
– Về tác giả Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại, tài ba của dân tộc Việt Nam, đồng thời là nhà thơ xuất sắc.
– Giới thiệu bài thơ “Cảnh khuya”: Bài thơ được sáng tác trong những năm kháng chiến chống Pháp. Lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh vẫn đang chăm lo cho cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp. Vì không ngủ được nên Bác giao lưu với thiên nhiên và đã viết bài thơ này.
1.2. Thân bài:
a. Bức tranh thiên nhiên về cảnh khuya ở chiến khu
– Tranh thiên nhiên là tranh động chứ không phải tĩnh.
– Mở đầu bằng tiếng suối: tiếng suối trong rừng xa vọng lại như tiếng hát trong trẻo của người con gái.
+ Ở đây ta thấy sự thay đổi của chuẩn mực cái đẹp: trước đây, tự nhiên là chuẩn mực để nói về vẻ đẹp con người (thước đo tượng trưng). Trong thơ, Bác Hồ đã dùng chuẩn mực để miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên (Tiếng suối trong như tiếng hát).
+ Tiếng suối róc rách trong trẻo như tiếng hát của người con gái.
+ Ánh trăng khuya tạo thành những bóng hoa trên mặt đất.
+ Từ “lồng” nhấn mạnh sức lan tỏa của ánh trăng khuya.
⇒ Cảnh thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp của ánh trăng đêm yên tĩnh, huyền ảo. Không chỉ có một màu vàng yên bình, mà còn có dòng suối trong veo như tiếng hát từ xa.
b. Tâm trạng nhà thơ
– Câu thơ thứ ba có dấu phẩy ở giữa như cắt đứt hai vế đối lập.
– Trước thiên nhiên dịu dàng, lung linh, thanh bình và đẹp như tranh vẽ là tâm trạng của nhà thơ. Đó là một trạng thái không chắc chắn, lo lắng và bình yên.
– Ai chưa ngủ chỉ có thể miêu tả vẻ đẹp của đêm khuya.
– Không phải Bác thức để thưởng ngoạn, mà vì lo cho đất nước.
Đối lập với sự hài hòa của thiên nhiên là tâm trạng đầy lo âu của nhà thơ, lo cho ngày mai chinh chiến, ngày mai có giành được độc lập cho dân tộc hay không.
1.3. Kết bài:
– Tóm tắt giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ
+ Nội dung: vẻ đẹp của đêm rằm tháng Giêng ở Tây Bắc và tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu nước, phong thái ung dung, lạc quan của Bác Hồ
+ Nghệ thuật: thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, hình ảnh thơ mang màu sắc cổ điển mà bình dị, gần gũi…
– Đoạn thơ vẽ nên bức tranh thiên nhiên ở chiến khu Việt Bắc yên bình với màu ánh trăng, sống động, trong trẻo với tiếng suối róc rách, qua đó thể hiện những trăn trở của nhà thơ.
2. Bài phân tích bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh hay nhất:
Chủ tịch Hồ Chí Minh vốn là một nghệ sĩ. Là một người có tình yêu tha thiết với thiên nhiên, vạn vật, mặc dù đang ở trong ngục tối, bị giam hãm trong thời gian nhưng đứng trước vẻ đẹp của thiên nhiên, với những rung cảm mạnh mẽ, Bác Hồ đã sáng tác nên những vần thơ kiệt tác. Cho đến những ngày tháng hoạt động ở chiến khu Việt Bắc đầy gian khổ, khó khăn, tâm hồn Bác vẫn không ngừng hướng ra thế giới. Và bài thơ Cảnh khuya là một trong những bài thơ được tạo nên từ những rung động trước cuộc đời như thế.
Bài thơ Cảnh khuya được viết bằng chữ Quốc ngữ hiện đại. Vẫn là khung cảnh núi rừng Việt Bắc nhưng là một cảnh thiên nhiên ở một không gian khác. Đoạn thơ mở đầu bằng âm hưởng núi rừng:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Tiếng suối hay tiếng người? Có lẽ hai âm thanh này đã hòa quyện với nhau? Thật khó để nói sự khác biệt. Trường liên tưởng, so sánh của Bác thật đặc biệt nhưng cũng thật chân thực, tạo nên một hình ảnh thơ sinh động, làm sống động khung cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc. Đọc bài thơ này ta chợt nhớ đến câu thơ của Nguyễn Trãi:
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Nếu như trong hai câu thơ của Nguyễn Trãi lấy thiên nhiên làm chuẩn mực của cái đẹp, cái hoàn thiện thì trong thơ Bác lấy con người làm chuẩn mực của cái đẹp. Đây có thể coi là một bước tiến, đánh dấu bước chuyển mình của thơ ca hiện đại. Bác đã so sánh tiếng suối với tiếng hát một cách tinh tế và gợi cảm, hình ảnh so sánh này làm cho tiếng suối xa gần, gần gũi với con người hơn.
Câu thơ tiếp theo thể hiện sự hài hòa, đồng điệu của cảnh vật: Vầng trăng cổ thụ in bóng hoa. Khung cảnh thiên nhiên vô cùng huyền ảo, chúng đan xen, hòa quyện vào nhau tôn lên vẻ đẹp của nhau. Ta có thể thấy bức tranh chồng lên nhau thành nhiều tầng, nhiều lớp, đường nét và hình khối đan xen, hài hòa với nhau một cách kỳ diệu. Với dáng cây cổ thụ tán rộng, trên cao là ánh trăng trong veo lấp lánh, dưới đất là bóng cây ngàn hoa, bức tranh về đêm không u tối, u uất mà trái lại tràn đầy sức sống và sinh động.
Trong khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, hữu tình ấy, con người hiện lên và đó cũng chính là hình ảnh của nhà thơ. Nhà thơ say mê ngắm nhìn, chiêm ngưỡng và cảm nhận vẻ đẹp lung linh, huyền ảo. Dòng thơ thứ tư bỗng mở ra một chiều sâu mới trong tâm hồn nhà thơ: Chưa ngủ vì nỗi lo nước nhà. Hóa ra Bác không ngủ được là vì trăn trở cho vận mệnh của dân, của nước, chính trong những lúc trầm tư ấy, Bác bắt gặp vẻ đẹp của thiên nhiên, vạn vật.
Từ “chưa ngủ” đặt ở cuối câu thứ ba, đầu câu thứ tư như một bản lề mở ra hai dòng tâm trạng của con người: một bên say đắm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, một bên là sự sầu não về sự nghiệp giải phóng dân tộc. Hai mặt đó không mâu thuẫn mà hòa quyện, thống nhất trong tâm hồn Bác. Chân dung Bác Hồ hiện lên thật đẹp và xúc động, đó là hình ảnh của một vị lãnh tụ hết lòng lo việc nước. Đoạn thơ đã làm sáng lên phẩm chất và nhân cách cao quý của Bác.
Đoạn thơ có sự kết hợp linh hoạt các biện pháp nghệ thuật: so sánh, nối liền hai tâm trạng, bộc lộ chiều sâu tâm hồn cao đẹp của Bác. Ngôn ngữ thơ hiện đại, giản dị nhưng cũng rất tinh tế, súc tích.
Cảnh khuya đã cho ta thấy một tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết và sâu sắc. Cùng với đó là tấm lòng luôn nghĩ đến vận mệnh đất nước, dân tộc. Đoạn thơ là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ điển và yếu tố hiện đại tạo nên nét độc đáo cho tác phẩm.
3. Bài phân tích bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh ấn tượng nhất:
Hồ Chí Minh là nhà lãnh đạo cách mạng thiên tài của dân tộc, nhưng đồng thời Người cũng là nhà thơ sát cánh cùng các thi nhân Đông Tây kim cổ. Trong những năm tháng gian khổ của dân tộc chống Pháp, bên cạnh những chính sách, sách lược đánh giặc tài tình, ông còn có những vần thơ lay động lòng người. “Cảnh khuya” là một trong số đó:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
Bài thơ ra đời giữa cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ, ác liệt của dân tộc ta: năm 1947. Trên chiến khu Việt Bắc, sau những giờ phút mỏi mệt, trong cảnh đêm núi rừng, Người lại bồi hồi. trước cảnh đêm yên tĩnh. Điều đầu tiên Bác cảm nhận được giữa thiên nhiên hoang dã là tiếng suối róc rách chảy theo dòng nước: Tiếng suối trong như tiếng hát xa.
Thật là một sự so sánh kỳ lạ! Âm thanh của dòng suối ban đầu được cảm nhận bằng thính giác, nhưng lắng nghe tiếng suối, anh ta có thể cảm nhận được “trong” của dòng chảy. Dòng suối ấy phải ngọt ngào, mát lành, phải là món quà đặc biệt mà thiên nhiên núi rừng ban tặng cho những người lính trên chặng đường hành quân dài mệt nhọc. Không những thế, dòng suối còn trong vắt “như tiếng hát từ xa”.
“Tiếng hát xa” là một âm hưởng rất đặc biệt. Phải là một giọng thật cao thì mới có sức lan tỏa mạnh mẽ, để từ xa người ta vẫn cảm nhận được. Đó cũng là một bản nhạc vang lên trong một khoảnh khắc tĩnh lặng bởi nếu không, nó sẽ hòa lẫn với bao nhiêu âm thanh phức tạp của cuộc sống, liệu con người có thể cảm nhận được từ xa hay không? Điều thú vị trong câu thơ của Bác là âm thanh của thiên nhiên được so sánh với tiếng hát của con người. Điều đó thể hiện cảm hứng nhân văn sâu sắc trong thơ Bác.
Cảnh đêm phải trong trẻo, tĩnh mịch đến mức anh có thể nghe được tiếng suối róc rách. Điều này cũng không khó hiểu bởi không gian núi rừng thường bao trùm nhiều âm thanh phong phú: tiếng chim hót, tiếng gió thổi, tiếng cây rừng xào xạc, tiếng thú gọi bầy. Trong bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc, Bác đã từng đã viết:
“Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày”.
Rồi có lẽ, đây là khoảng lặng hiếm hoi của thiên nhiên núi rừng về đêm. Thiên nhiên tĩnh lặng mà tâm hồn con người cũng tĩnh lặng, thanh thản hòa mình vào vẻ đẹp của thiên nhiên. Thiên nhiên lúc đó thật hữu tình làm sao: Trăng soi bóng cây cổ thụ, hoa lá.
Hai từ “lồng” trong cùng một câu thơ tạo nên những ấn tượng rất đặc biệt. “Lồng” là một động từ chỉ các đồ vật được sắp xếp theo một cách rất phù hợp để tạo thành một tổng thể. Câu thơ hữu tình như một bức tranh sơn thủy hữu tình: ánh trăng bao la soi bóng cây cổ thụ, bóng cây cổ thụ dịu dàng che cành hoa.
Bác dùng từ “lồng” rất “đắt”, nó trở thành “nhãn tự” cho câu thơ. Chỉ một từ ấy, cảnh vật như hòa quyện, nương tựa vào nhau một cách duyên dáng và đáng yêu. Ánh mắt của người chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh thật yêu thương và nhân hậu.
Cảnh đêm sống động, có hồn chứng tỏ một điều: người xem đã rời xa giấc ngủ yên bình thường ngày. Chính vì thế: Cảnh khuya như vẽ ai chưa ngủ.
Cảnh đêm trong trẻo, tĩnh mịch càng làm nổi bật hình ảnh Bác Hồ trằn trọc thao thức trong đêm thanh tĩnh. Con người hòa mình vào thiên nhiên để cất lên những vần thơ ca ngợi thiên nhiên núi rừng, tuy chỉ là phút phiêu bồng trong mây gió, nhưng tâm hồn họ đã thực sự được gửi đến một chân trời khác: Chưa ngủ vì lo việc nước.
Câu thơ ngân vang như một sự thức tỉnh cho người đọc. Chúng tôi tưởng Bác đang ung dung thưởng cảnh chơi trăng nhưng thực ra lòng người vẫn đau đáu về tình cảm đất nước. Bác “không ngủ” vì một lý do rất Hồ Chí Minh: “lo cho đất nước”. Nói điều này bởi Bác Hồ đã nhiều đêm trằn trọc, không ngủ vì cuộc kháng chiến toàn quốc:
“Một canh, hai canh, lại ba canh
Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng lành
Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”.
Bài thơ khép lại với một âm vang vô cùng lớn. Đã hơn một lần chúng ta xúc động trước tấm lòng nhân ái bao la của Bác nhưng mỗi lần đọc lại “Cảnh khuya” lại đánh thức tình cảm của một con người mà cả cuộc đời không bao giờ ngơi nghỉ.