Phân tích bài thơ Bài ca phong cảnh Hương Sơn vừa được sưu tập và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo và có thêm tài liệu học tập. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết tại đây với chủ đề Phân tích bài Hương Sơn phong cảnh của Chu Mạnh Trinh.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích bài Hương Sơn phong cảnh của Chu Mạnh Trinh:
1.1. Khái quát về bài thơ:
– Hoàn cảnh sáng tác: Tác giả là người yêu thích cảnh đẹp và cũng là một quan triều đình mẫu mực đã lên đường trùng tu lại chùa Hương. Trong thời gian này, nhà thơ đã lấy cảm hứng từ cảnh đẹp của Hương Sơn để viết bài thơ này.
– Thể loại: hát nói, hát ả Đào với đặc trưng bởi số lượng câu chữ phong phú, không có trật tự Gò bó
– Bố cục: 3 phần
1.2. Phân tích bài thơ:
*4 câu đầu:
– Bầu trời cảnh Bụt: Bốn chữ này gợi cho người đọc cảm giác như đang đi đến một chốn thần tiên thoát ly trần thế, một không gian rộng lớn và thanh tịnh.
– Hương Sơn còn đẹp với khung cảnh hùng vĩ của núi non trùng điệp. Nhịp 2/2 và sự lặp lại của “non non”, “nước nước” và “mây mây” dường như thể hiện quần thể núi, sông, hang nước đặc trưng của nơi này.
– Giọng điệu của bài thơ thể hiện sự ngạc nhiên và thích thú khi đến một địa điểm nổi tiếng
– Câu hỏi và cách nhắc lại lời người xưa để khẳng định vẻ đẹp của Hương Sơn. (Thủ Hương Sơn ao ước bấy lâu nay./“Đệ nhất động” hỏi lờ đây có phải?)
– Chỉ trong bốn câu thơ, tác giả đã truyền tải đến người đọc sự trầm trồ trước địa danh tôn giáo thanh cao cũng như những cảnh đẹp của đất nước này. Người ngắm cảnh không chỉ là một người hành hương, ông còn là một người yêu thiên nhiên, yêu đất nước và là một nhà thơ giàu cảm xúc. Bốn câu thơ đầu giới thiệu cảnh vật và con người một cách tự nhiên và khéo léo.
*10 câu giữa
– Chu Mạnh Trinh cảm nhận cảnh vật trong không khí Thanh khiết không vướng mô thức chú ý bụi trần:
– Tang hải là từ chỉ những thay đổi trong cuộc sống và những biến đổi vô thường trong cõi đời thế tục này. Vì vậy, khách tang hải nghe tiếng chày thì giật mình. Du khách đến đây, trong không khí chốn bồng lai tiên cảnh, chợt thấy tâm hồn mình được thanh lọc và nhận ra rằng cuộc đời là một giấc mơ thoáng qua. Vì thế, cảnh đẹp Hương Sơn càng trở nên ý nghĩa hơn.
– Càng đi sâu và càng leo cao càng ngỡ ngàng trước vẻ đẹp hùng vĩ của cảnh vật.
+ Điệp từ “này”, một cách liệt kê các địa danh, giúp người đọc hình dung ngay vẻ đẹp của quần thể, bao gồm những dòng suối, tháp, chùa, hang động. Nhà thơ không cần miêu tả nhiều, chỉ riêng cái tên đã gợi lên những liên tưởng phong phú, gợi cảm trong lòng người đọc.
+ Nhà thơ đã miêu tả cụ thể và tỉ mỉ về hang Hương Sơn trong bốn câu thơ (Nhác trông lên ai khéo họa hình,/Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt/Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt,/Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây)
+ Đại từ “ai” được dùng để diễn tả sự sững sờ trước vẻ đẹp kỳ diệu của thiên nhiên. Đó là một câu thơ vừa tả thực vừa lãng mạn với màu sắc, đường nét, ánh sáng và cảm giác bồng bềnh kỳ ảo tựa chốn bồng lai tiên cảnh. Cách dùng từ láy long lanh, thăm thẳm và gập ghềnh; cách đảo chữ thăm thẳm một hang; Hình ảnh so sánh lồng bóng nguyệt, uốn thang mây thể hiện tài năng điêu luyện của nhà thơ.
*5 câu cuối:
– Cảm xúc và suy nghĩ về đất nước (Chừng giang sơn còn đợi ai đây,/Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt).
– Câu thơ cuối là những suy nghĩ, nỗi lòng của nhân vật trữ tình. Ở đây không chỉ có những nhà thơ sống cuộc đời tự do, lãng mạn, thoát ly hiện thực mà còn có những học giả với tấm lòng nặng trĩu khao khát quê hương.
– Nghệ thuật:
+ Sử dụng từ ngữ có giá trị tạo hình cao
+ Giọng thơ nhẹ nhàng
+ Sử dụng các kiểu câu khác nhau, sử dụng ngữ điệu tự do.
2. Phân tích bài Hương Sơn phong cảnh của Chu Mạnh Trinh ấn tượng:
Phong cảnh luôn làm lay động trái tim con người và ngay cả một người bình thường cũng trở nên mềm lòng khi đứng trước thiên nhiên tươi đẹp. Vì thế, trước cảnh tượng như vậy, các thi sĩ không khỏi kiềm chế lòng mình. Những xúc cảm của tâm hồn ngập tràn chất thơ cũng khiến nhiều nhà thơ bối rối, phải nhanh chóng đặt bút xuống, để cảnh vật đi vào trái tim mình trước khi chuyển ngòi bút sang trang giấy. Cũng vì vẻ đẹp tự nhiên của Hương Sơn nên tác giả Chu Mạnh Trinh đã không sai khi ca ngợi vẻ đẹp của nơi này bằng những ngôn từ mỹ miều.
Kết hợp với sự nhạy cảm và con mắt tinh tế của mình, mọi thứ về Hương Sơn đều là đề tài cho giới văn, nghệ sĩ tìm tới. Không chỉ trong thơ mà cả trong ca hát, Hương Sơn hiện ra trước mắt mọi người như khung cảnh ở chốn tiên cảnh. Đây thực sự là món quà mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Sự kết hợp hài hòa giữa cảnh vật và con người khiến bài thơ càng trở nên đẹp hơn. Đối với Chu Mạnh Trinh, Hương Sơn là nơi thoát khỏi vẻ đẹp thế tục của nhân gian. Chính vì vậy mà tác giả đã giải thích phần lớn tinh thần này chỉ trong vỏn vẹn bốn từ ở câu thơ mở đầu.
“Bầu trời cảnh Bụt”
Cảnh vật ở đây mang đậm chất Phật giáo, vừa miêu tả cảnh thần tiên vừa thiêng liêng thanh tịnh. Không có từ ngữ nào có thể diễn tả hết vẻ đẹp này. Không cần phải giải thích dài dòng. Chỉ hai chữ “Cảnh Bụt” đã gợi lên nhiều điều trong trí tưởng tượng của người đọc. Bầu trời mở rộng, không khí hư không, mọi thứ trở nên rộng ngút ngàn và có điều gì đó thật độc đáo. Cây bút của Chu Mạnh Trinh dường như nắm bắt được nhịp điệu của chuyển động đầy cảm hứng này, làm sống động những nét vẽ tinh tế. Một phong cảnh vừa thiền định vừa xuất sắc.
Kìa non non, nước nước, mây mây
Cảnh núi non trùng điệp, mây trời và cảnh sông nước thơ mộng càng mở rộng không gian Hương Sơn, tạo cho thi sĩ cảm giác như đang đứng trên cao và ngắm nhìn toàn cảnh. Hầu hết các danh thắng của Hương Sơn đều được coi là chốn sơn thủy hữu tình, gồm có núi non, rừng suối, cùng những chim bay, cá lượn, tất cả đều là những khung cảnh đẹp mê hồn. Nhưng Hương Sơn là cảnh Bụt. Tâm hồn và suy nghĩ cũng tràn ngập những cảnh xung quanh Hương Sơn.
Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lửng lơ khe Yến cá nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Thông qua nghệ thuật nhân hóa, các sinh vật ở đây dường như đều có tâm hồn, suy nghĩ, tâm niệm nhưng không chỉ có tâm niệm mà còn ảnh hưởng bởi sự linh thiêng của nơi đây. “chim cúng trái, cá nghe kinh” Những nhân vật này giống như những tín đồ của nơi này. Du khách đến đây không chỉ để ngắm cảnh mà còn để hòa mình vào bầu không khí linh thiêng ấy. Những âm thanh “thỏ thẻ”, hình ảnh “dáng cá lửng lơ” và cuối cùng là tiếng chày kinh tạo nên bầu không khí đặc trưng của Hương Sơn.
Tuy nhiên, bước chân của tác giả không dừng lại ở đó. Bằng cách liệt kê các địa danh ở đây, Hương Sơn càng nổi bật bởi cảnh quan phong phú.
Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Vũng
Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh
Cảnh sắc thật giàu có, đủ cả suối, chùa, am, động… Mọi thứ dường như được bày ra theo bước chân du khách và dẫn họ đến những điều bất ngờ này đến bất ngờ khác. Chu Mạnh Trinh đã tạo nên tranh Hương Sơn có nét đẹp huyền ảo, màu sắc cách điệu đẹp mắt, tác phẩm vừa động vừa tĩnh.
Nhác trông lên ai khéo họa hình,
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt.
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt.
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây.
Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật,
Cửa từ bi công đức, xiết là bao
Chặng cuối cùng của du khách tham quan Hương Sơn cũng đã đến điểm dừng. Tuy nhiên, những hình ảnh xuất hiện vẫn rất đẹp và mĩ lệ. Cách sử dụng ngôn từ của tác giả như thêm những hạt cườm trong suốt trên nền màu sặc sỡ càng làm nổi bật thêm vẻ huy hoàng của Hương Sơn. Cảm xúc của tác giả khiến chúng ta có cảm giác như vừa bước ra từ chốn thần tiên. Tác giả dường như đưa chúng ta từ nơi trần tục đến nơi thần tiên thanh tịnh. Chính vì vậy mà không khỏi kiềm lòng mà thốt lên.
“Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật,
Cửa từ bi công đức, xiết là bao
“Hương Sơn phong cảnh ca” là một bức tranh phong cảnh nhưng sử dụng ngôn từ để khắc họa sự gắn kết giữa con người và thiên nhiên. Vẻ đẹp của thiên nhiên còn được thể hiện qua những bức tranh hùng vĩ, duyên dáng. Qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên cũng như sự tinh tế và con mắt tinh tường của tác giả đối với vẻ đẹp mà thiên nhiên ban tặng.
3. Phân tích bài Hương Sơn phong cảnh của Chu Mạnh Trinh bay:
Chu Mạnh Trình (1862-1905) là một vị quan triều Nguyễn có tài làm thơ chữ Nôm và rất am hiểu về kiến trúc. Hương Sơn là công trình kiến trúc, cảnh quan nổi tiếng ở huyện Mỹ Đức, Hà Nội, được vô số du khách ghé thăm mỗi năm. Vì cảnh đẹp Hương Sơn nên Chu Mạnh Trinh đã hết lời khen ngợi và vui mừng khi trùng tu Chùa Thiên Trù trong quần thể này và viết bài thơ “Hương Sơn phong cảnh ca” hay còn gọi là Ca khúc phong cảnh Hương Sơn.
Bài thơ bắt đầu bằng một câu thơ bao quát cảnh Hương Sơn:
Bầu trời cảnh Bụt
Tại sao lại là cảnh Bụt mà không phải là cảnh núi non nước biếc nào khác, đó là bởi vì tác giả đang đứng giữa một cảnh quan thiêng liêng Phật giáo. Hương Sơn tựa như có một vị Phật từ phía trên tỏa sáng khắp núi rừng. Câu “Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay” thể hiện niềm hạnh phúc, vui sướng của nhà thơ khi cuối cùng ông cũng được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Hương Sơn để thỏa cái chí chu du và mãn nguyện cái tấm lòng kiến trúc và cảnh quan đẹp của địa điểm Phật giáo đầy màu sắc này. Giống như nhiều cảnh quan khác nơi đây cũng có “non non, nước nước, mây mây” là những cảnh căn bản và có thể tìm thấy dễ dàng, nhưng ở Hương Sơn, những cảnh quan mây núi này lại mang một phong cách khác. Chắc chắn nó không chỉ đẹp mà còn mang đầy phong vị Phật pháp, mang đến cho người xem một cảm giác bình yên và tĩnh lặng hoàn toàn khác. Quả đúng như khi chúa Trịnh Sâm đến thăm đã đặt cho Hương Sơn cái tên trứ danh là “Nam Thiên đệ nhất động”.
Bốn câu thơ
“Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh
Vẳng bên tai một tiếng chày kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng”
Lời thơ làm Liên tưởng đến sự tĩnh lặng và dịu dàng của cảnh vật nơi đây, những chú chim “thỏ thẻ” nhẹ nhàng đùa giỡn với hoa trái, dòng nước “lững lờ” trôi, những chú cá không tung tẩy trong nước mà lại lặng lẽ “nghe kinh”. Du khách có cảm giác như lạc vào chốn thần tiên, bỗng suy ngẫm về thế sự luôn thay đổi. Chỉ cần “tiếng chày kinh” vang vọng đây đó đã đánh thức đại mộng, khách vãng lai như được giác ngộ.
Trong những câu thơ tiếp theo, tranh phong cảnh của Hương Sơn được thể hiện một cách tinh tế, mang tình yêu và tâm hồn vào khung cảnh, khiến mọi thứ trở nên sống động và trong trẻo một cách kỳ diệu. Đây dường như là nơi ở của chốn thần tiên thoát tục tìm kiếm sự thuần khiết, không gian và sự bình yên trong tâm hồn. Du khách đến hành hương nơi đây và thưởng ngoạn cảnh đẹp trên hết mong muốn tìm thấy sự bình yên trong sâu thẳm tâm hồn và an nghỉ dưới chân Đức Phật với tấm lòng tràn đầy tôn kính.
“Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng
Này hang Phật Tích, này động Tuyết Quynh
Nhác trông lên ai khéo họa hình
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây”
Lời thơ chỉ đơn giản liệt kê những địa danh nổi tiếng ở huyện Hương Sơn nhưng nhấn mạnh đôi chút ở vài chữ “Ai khéo họa hình”, phong cảnh Hương Sơn đẹp như một bức tranh vậy. Người nghệ sĩ đã khéo léo vẽ chúng.
“Chừng giang sơn còn đợi ai đây
Hay tạo hóa khéo ra tay sắp đặt
Lần tràng hạt niệm Nam mô Phật
Cửa từ bi công đức biết là bao
Càng trông phong cảnh càng yêu”
Giữa khung cảnh thiêng liêng và chốn non nước hữu tình, ta thấy những cảm xúc mới mẻ đang bén rễ trong tâm hồn tác giả. Tiếng chuông chùa vang lên từ xa, nhà thơ chợt bừng tỉnh. Những kẻ mộng mơ và thi sĩ muốn quên đi tạp niệm hồng trần mà bước vào cửa từ bi, ăn chay, niệm Phật và tích lũy công đức.
Nhà thơ cảm nhận vẻ đẹp của Hương Sơn bằng tâm hồn trong sáng, rũ bỏ mọi bụi trần, hoàn toàn đắm mình vào cảnh vật và cảm nhận được năng lượng tâm linh của nơi thiền tĩnh lặng. Bằng cách này, bài thơ đã thể hiện rõ nét cả vẻ đẹp của Hương Sơn và sự ngưỡng mộ của tác giả đối với cảnh đẹp, đồng thời thể hiện tình yêu quê hương sâu sắc trong tâm hồn của tác giả.