Bảo kính cảnh giới là một bài thơ rất hay và đặc sắc nhất của Nguyễn Trãi , qua bải thơ tác giả đã khắc họa vẻ đẹp dung dị của phong cảnh làng quê Việt Nam. Dưới đây là mẫu bài văn phân tích tác phẩm Bảo kính cảnh giới của Nguyễn Trãi hay và chọn lọc nhất.
Mục lục bài viết
1. Hướng dẫn lập dàn ý bài Bảo kính cảnh giới:
1.1. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
1.2. Thân bài:
Bức tranh thiên nhiên ngày hè:
* Bức tranh thiên nhiên tươi sáng, rực rỡ:
– Hình ảnh: “hoè lục”, “thạch lựu hiên”, “hồng liên trì” => hình ảnh gắn liền với cuộc sống đời thường, bình dị, gần gũi.
– Động từ “đùn” và “phun” thể hiện:
+ “đùn đùn “: diễn tả sự phát triển mãnh liệt của các cây hoè => gợi ra hình ảnh những tán hoè xoè rộng, không ngừng vươn và nở hoa rực rỡ trong một không gian lớn.
+ “phun “: sức sống mãnh liệt, tràn đầy sinh lực của hoa lựu => hình ảnh cây lựu đỏ trước hiên nhà, đang liên tục bung nở trên từng cành lá.
– “Hồng liên trì đã tịn mùi hương “: sen hồng trong ao nhà đã toả ngát hương thơm => hương thơm dịu nhẹ, tinh khiết.
* Bức tranh ngày hè sống động, rộn rã: nhà thơ dùng phương pháp đảo ngữ và hệ thống từ phong phú để diễn tả âm thanh cuộc sống:
– Tiếng “lao xao “: âm thanh ồn ào từ chợ cá vọng về.
– “Dắng dỏi “: giọng hát đều đều, không dứt,” cầm ve “: âm thanh rộn ràng, vui tươi của đàn ve trùng với tiếng đàn.
Tâm trạng của nhân vật trữ tình.
– “Lẽ có” nghĩa là lẽ cần có và mong muốn được có.
– “Ngu cầm “: ước mơ của vua Ngu Thuấn.
-> Ước mơ có chiếc đàn của vua Thuấn khi tấu lên khúc “Nam Phong” -> thể hiện mong muốn sẽ mang đến cuộc sống ấm no, sung túc cho dân chúng.
– “Dân giàu có đủ khắp đòi phương “: hy vọng dân chúng ở khắp các miền đất nước được ấm no, đủ đầy.
=> Cốt cách cao đẹp của người anh hùng Nguyễn Trãi.
Đặc sắc nghệ thuật:
– Ngôn ngữ giản dị, gần gũi; hình ảnh đời thường thân quen.
– Hình thức thơ ca lục ngôn xen lẫn thất ngôn.
– Biện pháp đảo ngữ với hệ thống chữ “lao xao”, “dắng dỏi” và các động từ như “đùn đùn”, “phun”.
1.3. Kết bài:
– Khẳng định ý nghĩa bài thơ.
2. Phân tích bài thơ Bảo kính cảnh giới hay nhất:
“Cảnh ngày hè” là tập thơ được ông viết vào khoảng thời gian về nghỉ ngơi ở Côn Sơn. Tại đây Nguyễn Trãi được hoà với cảnh tươi đẹp của thiên nhiên cùng con vật ở vùng thôn quê và sống một cuộc sống nhẹ nhàng bình dị, tạm lánh nơi kinh thành đông đúc xe cộ, mỏi mệt trước các thủ đoạn đua tiền quyền thế. Trong suốt thời gian nghỉ ngơi nhàn nhã “bất đắc dĩ” đó, nhà thơ tận hưởng từng khoảnh khắc yên bình của cuộc sống và âm thầm gửi gắm bao tâm tư của mình vào thi ca, ước vọng xây dựng một đất nước bình yên, dân giàu, nước thịnh, tâm hồn tràn ngập tình yêu thiên nhiên, con người, yêu quê hương, đất nước.
Với kỹ thuật dùng phép đối từ ta đặt các âm thanh “lao xao” và “dắng dỏi” lên đầu mỗi câu gợi ra không khí sôi động của bức tranh ngày hè. Âm thanh rộn ràng, tươi vui cho ta biết một đất nước đã trở nên phồn vinh hơn nữa. Vì tại sao phải nói như thế? Đây cũng là tiếng “Lao xao” tiếng người, rộn rã tiếng nói nụ cười. Là tiếng lao xao của lớp người dân việt nam chăm chỉ làm ăn và cuộc sống của họ đang không ngừng thay đổi. “Lao xao” cùng với tiếng ve nghe rộn ràng mà vui tươi.
Tiếng ve lúc chiều tà với tiếng trống rộn ràng khiến tâm trạng thi nhân cũng phấn chấn dần lên. Cùng với âm thanh của cuộc sống ấm no, tròn đầy là tiếng ve giữa khoảnh khắc chiều tà. Lúc tịch dương, cho dù là miền núi hay nơi tịnh đài người ta vẫn nghĩ về không khí ảm đạm bao trùm và sự vui đang sắp tàn. Nhưng buổi chiều “tịch dương” trong thơ Nguyễn Trãi không như vậy. Không gian lạnh lẽo ấy đã bị bao phủ bằng tiếng ve “dắng dỏi”. Tiếng ve to hơn một bản đàn làm hoàng hôn cũng trở nên rộn rã. Ta thấy Nguyễn Trãi một con người có tình yêu cuộc sống, tình yêu con người đến nồng nàn cháy bỏng, khao khát giao cảm với thiên nhiên với cuộc đời đã khơi gợi nên trong ông nhiều cảm xúc và sự rung động xao lòng nhất, một tâm hồn thiết tha cuộc sống.
Nội dung chủ yếu của ý thơ là tình yêu của Nguyễn Trãi với thiên nhiên kỳ vĩ. Nhân vật trữ tình xuất hiện tại vào khoảng không gian lộng lẫy đó giống như một nét mực tô điểm trên trang tuyên thành. Nguyễn Trãi là một người yêu mến thiên nhiên, ông chìm đắm giữa sự bao la và mở rộng tình cảm với cái đẹp đó trong mọi trường hợp. Nhưng với đặc điểm thơ lúc bấy giờ thiên về tả, thì Nguyễn Trãi đã dùng thủ pháp này hết sức tài tình. Bức hoạ thiên nhiên hiện nên với tất cả các vẻ đẹp đều qua mấy câu:
Hình ảnh khúc Nam Phong ca của vua Thuấn khi chơi đàn Ngu Cầm được đưa vào 2 câu thơ cuối. Đây là hình ảnh của những ngày thịnh vượng và giàu sang vua Thuấn đem đàn đến chơi. Hình ảnh càng làm nổi bật tâm tư của ông, luôn nghĩ về đất nước. Ông mong muốn cuộc sống của nhân dân sẽ được bình yên và thịnh vượng như vậy. 3 câu kết có tiết tấu chậm rãi hơn nữa, cũng là nỗi niềm khó bày tỏ. Thiên nhiên và cảnh sắc làm nền tảng, nỗi sợ đất nước lại càng xa xôi.
Tình yêu đất nước, con người giao hoà với cái đẹp của thiên nhiên vẽ lên một bức tranh đẹp và ý nghĩa. Là một thi sĩ, Nguyễn Trãi cũng là một người của thiên nhiên. Cuối mọi tình huống, lý tưởng về việc gần gũi với nhân dân của ông cũng được làm sáng tỏ. Vậy là, thiên nhiên đã làm nền tảng cho tình yêu đất nước của Nguyễn Trãi ngày càng thêm sâu đậm.
“Cảnh ngày hè” đã trở thành tác phẩm kinh điển có sức ảnh hưởng đối với người xem đến mãi hôm nay. Đọc sách ta như nhận thức rõ ràng hơn nữa được một tấm lòng yêu đất nước trong sáng mãi không phai của nguyễn trãi, làm nóng lên ngọn lửa tình yêu tổ quốc với mình – các học giả. Vì thế mới nói, Nguyễn Trãi thực xứng với danh vua Lê Thánh Tông đã cho: “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”.
3. Phân tích bài thơ Bảo kính cảnh giới ý nghĩa nhất:
“Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi hiện còn 254 bài thơ, được in nhiều loại theo nhiều thể tài khác nhau: Ngôn chí (21 bài) , Thuật hứng (25 bài) , Bảo kính cảnh giới (61 bài) . .. Phần lớn các bài thơ trong “Quốc âm thi tập” không có nhan đề. Đây là bài thơ 43 của “Bảo kính cảnh giới”. Các bài thơ trong “Bảo kính cảnh giới” hàm chứa nội dung giáo huấn sâu sắc, mỗi bài thơ này đều đậm chất nhân văn và làm ta nhiều thích thú.
Đề tài mùa hè và cảnh hè được nói nhiều trong thơ văn cổ việt nam. “Quốc âm thi tập”, “Hồng Đức quốc âm thi tập”, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến. .. đều có những bài thơ viết về mùa hè khá hay. Bài thơ này là một thi phẩm rất tiêu biểu cho ngôn ngữ thi ca Ức Trai, đậm dấu ấn thời đại, thời Lê, thế kỷ XV nói lên cảnh sắc mùa hè làng quê cùng nỗi mong ước của nhà thơ.
Câu 1 (lục ngôn) nói lên lối sống của nhà thơ. Câu thơ bình dị như một lời nói vui vẻ, vô tư, hồn nhiên:
“Nhớ bóng mát thuở ngày trường”
Đằng sau bài thơ là hình ảnh một cụ già, tay cầm quạt giấy “Hài cỏ xanh chân đi thong thả – Áo bô đen cật vận quần đùi” đang đi tập thể dục. Lúc này, Ức Trai không bị trói buộc vào “áng mận đào”, hay “danh lợi” nữa, vì đã được vui thú nơi vườn ruộng, làm bạn với cỏ cây, hoa lá nơi quê nhà. “Ngày trường” là ngày nghỉ. “Rồi” là chữ trung, nghĩa là thảnh thơi, nhàn hạ, cả về thể xác lẫn tinh thần. Câu thơ phản ánh một nếp sống rất nhàn nhã: những lúc ngày nghỉ, lấy việc hóng mát làm niềm vui cho tâm hồn. Ta có thể phán đoán Ức Trai viết xong bài thơ này khi ông đã lui về Côn Sơn ở ẩn.
Năm câu thơ đầu tiên tả cảnh làng quê Việt Nam xa xưa. Các câu 2, 3, 4 nói về cảnh sắc, hai câu 5 và 6 tả âm thanh chiều hè.
Cảnh sắc hè trước hết là hoa hoè và màu hoè. Lá hoè xanh đậm, xanh thẫm. Tán hoè sum sê, rậm rạp, lá “đùn đùn” lên thành cụm, thành mảng xanh, tràn trề sức sống:
“Hoè lục đùn đùn tán lá lên”
Tán hoè toả bóng mát, che cả sân, ngõ, vườn nhà hay “trương” lên như cái ô, chiếc nón căng phồng. Mỗi từ ngữ là một nét vẽ màu sắc tạo hình, thể hiện sức sống của cảnh vật thôn quê trong những ngày hè: lục, đùn đùn, tán, râm trương. Ngôn ngữ thơ bình dị, trong sáng và gần gũi.
Cây hoè cũng được trồng nhiều ở làng quê; vừa làm cảnh, vừa tạo bóng mát. Hoè nở hoa vào mùa hè có màu vàng dùng làm gia vị và làm trà giải khát. Trong dân gian, cây hoè còn gắn liền với hình ảnh “giấc hoè” (giấc mơ đẹp) và “sân hoè” (chỉ nơi cha mẹ ở), hình ảnh cây hoè đã nhiều lần được diễn tả với một thứ ngôn ngữ trau chuốt, tinh tế:
Câu 3 nói về khóm thạch lựu ở hiên nhà nở hoa rực rỡ: “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”. “Thức” là tiếng cổ chỉ màu vẻ, dáng vẻ. Trong cành lá xanh có những đoá hoa lựu như cái đèn lồng nhỏ xíu phóng ra, toả ra và “phun” ra những tia lửa đỏ chói, rực rỡ. Chữ “phim” được dùng cả hình tượng và ý nghĩa.
“Truyện Kiều” cũng có câu: “Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông” – Từ hoa lựu “phun thức đỏ” hay “lửa lựu luống lá be” đến hình ảnh “đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông” là cả một quá trình sáng tạo ngôn ngữ thi ca của nhiều thế hệ nhà thơ việt nam qua 5 thế kỷ từ “Quốc âm thi tập” đến “Truyện Kiều vẻ đẹp ngôn ngữ thi ca được chăm chút như ngọc quý sẽ ánh lên màu sắc huyền ảo là như thế đấy!
4. Phân tích bài thơ Bảo kính cảnh giới ấn tượng nhất:
Nguyễn Trãi là một nhà tư tưởng vĩ đại, nhà quân sự lỗi lạc, nhà văn, thi sĩ kiệt xuất của việt nam, ông cũng là nhà chính trị, nhà ngoại giao tài ba – một danh nhân văn hoá thế giới. Có thể nói, Nguyễn Trãi là một hiện tượng hiếm có trong lịch sử dân tộc và thế giới một con người đã có đóng góp vô cùng to lớn trong sự nghiệp cách mạng xây dựng và phát triển đất nước nhưng đã phải chịu hoạ tàn khốc nhất lịch sử. Cuộc đời đầy gian nan, là con người am hiểu sâu rộng và có nhiều sáng tạo trong văn học những điều này đã đưa Nguyễn Trãi thành một thi sĩ tài ba. Trong tập thơ ta thấy một thi sĩ với một tâm thế thảnh thơi:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Một vị quan suốt ngày bận rộn với chuyện thiên hạ, giờ lại rảnh ngồi hóng mát phải chăng ông đã biết gạt việc triều chính và sự ồn ào qua một bên, tạm thời lánh xa về ở ẩn để sống cuộc đời của một hiền nhân thanh cao không vướng danh lợi. Người thi sĩ với tinh thần ung dung, tự tại có một dịp nhàn rỗi hiếm hoi đang hóng mát “thuở ngày trường” – một ngày dài dằng dặc, thời gian dường như vô tận. Ở đây ta có thể thấy sự sáng tạo mới của Nguyễn Trãi khi câu thơ bảy chữ của thể lục bát giờ đã giảm xuống sáu chữ. Nhịp thơ 1/2/3, chậm phản ánh sự thong dong, thư thái sẵn có của thi nhân, nhàn nhã và dường như không vướng chuyện chi. Ông chỉ biết mà hưởng thụ các thú vui của bản thân, ông ao ước được hoà vào thiên nhiên, được sống trong khoảnh khắc giản dị ấy nhưng cũng rất éo le thay, ngay khi thế sự vẫn chưa ngã ngũ, sau cuộc chiến còn thiếu lắm thứ, việc nhà việc nước bộn bề mà ông lại buộc mình hóng mát từ ngày này sang ngày kia thật đúng là trớ trêu. Bởi vậy, ông rơi phải tình cảnh thân nhàn mà tâm không yên. Đằng dưới câu trên như thấp thoáng một nụ cười chua xót của Nguyễn Trãi trước cảnh éo le đó. Tiếp đến ở ba câu cuối cùng ta thấy một bức tranh quê nổi nên với sự tươi sáng và hoà hợp.
Một vị quan suốt ngày bận rộn với chuyện triều chính, giờ đang nhàn rỗi ngồi hóng gió phải chăng ông đã biết gạt việc thiên hạ, sự thị phi qua một bên, tạm thời ẩn mình sang trong để sống cuộc đời của một hiền nhân thanh cao không vướng danh lợi. Người thi sĩ với tinh thần thảnh thơi, thư thái có một dịp nhàn rỗi hiếm hoi đang hóng mát “thuở ngày trường” – một ngày dài dằng dặc, thời gian dường như vô tận. Ở đây đó ta có thể thấy sự sáng tạo mới của Nguyễn Trãi khi câu thơ bảy chữ của thể lục bát giờ đã xuống còn sáu chữ. Nhịp thơ 1/2/3, chậm phản ánh sự an nhiên, bình thản sẵn có của ông, ung dung, dường như không ràng buộc điều gì. Ông chỉ biết tự do hưởng thụ các nhu cầu của bản thân, ông muốn được hoà vào thiên nhiên, để đắm chìm những khoảnh khắc giản dị ấy nhưng cũng rất éo le thay, ngay khi thế sự vẫn chưa thể yên ổn, cuộc chiến đấu đang cần nhiều cải tiến, việc nhà việc nước bộn bề vậy mà ông lại buộc mình hóng mát từ ngày này sang ngày kia thì thật là tréo ngoe. Bởi vậy, ông rơi vào tình cảnh thân thảnh thơi mà tâm không yên. Đằng sau câu trên như thấp thoáng một nụ cười chua xót của Nguyễn Trãi với hoàn cảnh éo le đó. Tiếp nữa ở ba câu cuối ta thấy một bức tranh quê nổi nên với màu sắc tươi sáng, rực rỡ.
Người sử dụng điển tích đàn Ngu cầm của vua Nghiêu Thuấn để miêu tả lại cảnh đời sống của nhân dân no đủ, đất nước bình yên. Nguyễn Trãi vẫn đau đáu trong lòng một niềm mong ước làm sao để dân chúng khắp nước đều hạnh phúc và ấm no. Ẩn giấu đằng sau niềm mong ước đó là lời nguyền rủa dịu dàng mà khắc nghiệt đám đại thần tham sắc ở triều đình đương thời không thèm quan tâm đến dân, đến nước. Theo ông, với cảnh nước non đẹp đẽ và nhân dân cần cù, chăm chỉ thì cuộc sống đáng ra phải sớm được no ấm, sung túc đã rồi. Chính ước mơ đó đã góp phần giúp ông thấu hiểu thêm được tấm lòng Nguyễn Trãi, một nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông thường nghĩ về cuộc sống của nhân dân và quan tâm hơn cuộc sống của họ. Khát vọng rất cao đẹp nhưng càng đẹp hơn khi khát vọng đó là ước mơ chung với tất thảy mọi người. Đó là ước mơ chung, khát vọng rất cao đẹp và thật đáng kinh ngạc.
Bài thơ đã dựng lên bức hoạ thiên nhiên nhiều sắc màu, hùng vĩ, thơ mộng cùng quang cảnh của cuộc sống thường nhật bình an và hạnh phúc. Điều ấy thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và khát vọng xã hội phát triển, nhân dân no ấm, đất nước phồn vinh của người nghệ sỹ hết mình vì nước, vì đời. Đồng thời, bài thơ cũng khắc hoạ tài năng cùng nhân cách cao đẹp và giàu lòng yêu dân, yêu đất nước của Nguyễn Trãi. Ngay kể cả khi đang bị o ép, ngờ vực, Nguyễn Trãi cũng luôn lo lắng đến nhân dân, với khát vọng muốn đóng góp trí tuệ và sức lực của bản thân vì đời, cho nước. Tác giả đã vận dụng cách sáng tạo thể thơ Đường luật với sự kết hợp của câu sáu chữ và câu bảy chữ. Thể thơ giản dị, mộc mạc, gắn bó với đời sống song cũng thật nhiều xúc cảm và đầy tính gợi mở. Bút pháp tả cảnh ngụ tình điển hình của văn chương hiện đại: Miêu tả thiên nhiên, trời đất và cảnh cuộc sống thường nhật của con người để từ đấy bày tỏ một cách tinh tế tâm trạng, cảm xúc, suy nghĩ của tác giả đối với con người, về cuộc đời.
5. Phân tích bài thơ Bảo kính cảnh giới 10 điểm:
“Quốc Âm thi tập” – Nguyễn Trãi được xem là đỉnh cao của thơ Nôm Đường luật và đưa ra những ảnh hưởng lớn vào nền thơ ca trung đại. Hầu hết, các sáng tác trong tập thơ nguyễn trãi đều hướng về chủ đề gần gũi như: tình cảm gia đình, tình yêu quê hương hay ca ngợi lòng yêu nước, vì nhân dân. Nổi bật trong số 254 bài của tập thơ, chúng ta không thể nào bỏ qua tác phẩm “Bảo kính cảnh giới” (bài 43) . Với sự phong phú về nội dung cùng đa dạng các hình thức nghệ thuật, bài thơ đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người xem.
Nguyễn Trãi từng là một nhà quân sự, chính trị, ngoại giao. Ông dành trọn một đời canh cánh nỗi lo việc nước và dường như, thời khắc trở về thiên nhiên chỉ là giây phút thư nhàn hiếm hoi. Câu thơ kết thúc đã gợi nên hoàn cảnh của thi sĩ:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường.”
Câu thơ là những cách tân táo bạo hiếm gặp trong thơ lục bát Đường luật. Phần đề hai câu này chỉ có một câu là lục ngôn. Nhịp điệu chậm rãi với việc ngắt nhịp 1/2/3 đã gợi nên sự thảnh thơi, ung dung của cuộc sống. Từ “rồi” được sử dụng ở đầu câu tập trung miêu tả cảnh cuộc sống ung dung, tự tại. Như vậy, trong giây phút rảnh rỗi đó, thi sĩ tìm đến với thú vui quen thuộc của giới Nho sĩ khi xưa: “hóng mát thuở ngày trường”.
Nhàn nhã ngồi ngắm cảnh, Nguyễn Trãi không ngừng xao xuyến, xốn xang với bức tranh ngày hè đẹp đẽ, tươi sáng:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ.
Hồng liên trì đã tịn mùi hương”
Không phải là hình ảnh có tính chất ước lệ, tượng trưng “tùng, cúc, trúc, mai” như trong thơ xưa, Nguyễn Trãi tả cảnh thiên nhiên qua những hình ảnh rất giản dị, mộc mạc. Trước hết, đó là cây hoè có hoa vàng và lá xanh đang vào độ tràn trề sức sống. Nhà thơ cảm nhận được sự phát triển mạnh mẽ, rực rỡ của thiên nhiên và diễn tả điều đó bằng động từ “đùn đùn”. Các tán hoè không ngừng vươn lên tạo thành tầng tầng lớp lớp, che mát mặt đất. Cụm từ “tán rợp trương” đã gợi nên một không gian rộng lớn được che phủ bằng màu xanh mướt và mát mắt của tán hoè. Tiếp đó, nhà thơ khéo léo khắc hoạ hình ảnh cây khế trước cửa nhà. Với quan sát tinh tế, Nguyễn Trãi đã bắt đúng được khí chất riêng có của hoa lựu mùa hè. Động từ “phun” diễn tả sức nở căng tràn, không thể nào cưỡng lại của hoa. Những bông hoa đỏ liên tiếp bung ra. Bức tranh càng thêm lung linh, rực rỡ với sự tô điểm của sen hồng. Ngoài hồ, sen đã nở rộ và toả ngát hương thơm. Vạn vật như đắm mình trong làn hương thơm mát và tinh khiết của loài hoa này.
“Lẽ có” là lẽ cần có và mong muốn phải có. Đặt chữ hán ở đầu câu cùng với từ “Ngu cầm”, Ức Trai kín đáo bày tỏ mơ ước có cuộc sống hạnh phúc và no ấm. Ông ao ước có chiếc đàn của vua Ngu Thuấn, từ đó tấu nên khúc Nam Phong cho “dân ta bớt ưu phiền” và “dân ta ngày thêm nhiều của cải”. Câu thơ cuối cùng với 6 tiếng ngắn gọn cũng là những suy tư và tình cảm dồn nén của nhà thơ. Ông tha thiết hi vọng quần chúng nhân dân ở khắp nơi sẽ được ấm no, hạnh phúc. Tưởng như tâm hồn nhà thơ được lắng đọng trong khung cảnh thiên nhiên chứ không phải thế. Từ đây, tấm lòng cao cả đó luôn hướng về dân tộc, đất nước. Từ đây, ta càng thêm khâm phục, ngưỡng mộ những chiến sĩ “trung quân ái quốc”, am hiểu lịch sử, có tư tưởng cách mạng “thân dân” và “lấy dân làm gốc”.
Bên cạnh nội dung sâu sắc, bài thơ cũng gây chú ý với bạn đọc nhờ hình thức nghệ thuật đặc biệt. Trước hết, với ngôn ngữ giản dị, dân dã, hình ảnh đời thường gần gũi cùng hình thức thơ lục ngôn và thất ngôn, nhà thơ đã sáng tạo ra một tác phẩm mang đặc trưng của “lối thơ Việt Nam” (Đặng Thai Mai) . Biện pháp đảo ngữ với hệ thống chữ “lao xao”, “dắng dỏi” cùng những động từ như “đùn đùn”, “phun” cũng góp phần tô lên vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống.