Tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông là một trong số những tác phẩm trọng tâm của chương trình ngữ văn lớp 12. Bài kí là một tác phẩm hay những cũng được đánh giá là khá khó trong chương trình học phổ thông. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp một số bài văn mẫu phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông hay nhất.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông:
Mở bài:
Giới thiệu về tác giả tác phẩm:
- Hoàng Phủ Ngọc Tường, sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937, tại thành phố Huế, quê mẹ lại ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
- Ông được biết đến là Tổng thư ký Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên – Huế, Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt.
- Là nhà văn chuyên viết bút kí, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ghi dấu mình trong nền văn học Việt Nam bằng nhiều tác phẩm giá trị: Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971), Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông (1986), Bản di chúc của cỏ lau (1984), Ngọn núi ảo ảnh (1999),…
Thân bài:
Ý nghĩa nhan đề:
Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông” vừa gợi lên cái tên đẹp đẽ của sông Hương, một vẻ đẹp phong phú, đa dạng và huyền diệu như đời sống tinh thần của người dân xứ Huế, đồng thời cũng gợi lòng biết ơn đối với những người đã có công khai phá vùng đất, dòng sông huyền thoại.
Vẻ đẹp của con sông thiên nhiên:
- Ở thượng nguồn: “bản trường ca của rừng già”, “cô gái Di-gan”, “người con gái của rừng già”, “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”.
- Trên đường tới Huế: sông Hương như người con gái lần đầu đến với tình yêu một mặt rất e lệ, một mặt táo bạo chủ động.
- Trong lòng thành phố và khi chia xa Huế: như một người con gái đắm say tình tứ khi bên người mình yêu, người con gái tài hoa “tài nữ đánh đàn trong đêm khuya”.
Vẻ đẹp văn hóa và lịch sử của dòng sông:
- Sông Hương là chứng nhân lịch sử của Huế và đất nước: “soi bóng kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ”, chứng kiến những mất mát đau thương của các cuộc khởi nghĩa thế kỷ 19,…
- Sông Hương với tư cách là một công dân có tinh thần trách nhiệm sâu sắc với đất nước: “biết xả thân để lập chiến công”,…
- Là người con gái anh hùng: đã cùng Huế trải qua bao trận thư hùng thời trung đại, cả Cách mạng tháng Tám đều có những chiến công vang dội,…
- Sông Hương là “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”: toàn bộ âm nhạc cổ điển Huế, những bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều và bản Tứ đại cảnh đều được sinh thành trên sông nước sông Hương.
- Là người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya: không bao giờ lặp lại trong cảm hứng của các thi nhân.
Kết bài: Đánh giá giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
2. Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông hay nhất:
Đất nước có một dòng sông nhưng chỉ có một dòng sông để thương để nhớ. Ta đã từng bắt gặp con sông Vàm Cỏ ngọt ngào như dòng sữa mẹ trong thơ Hoài Vũ hay con sông Đuống nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì trong thơ Hoàng Cầm nhưng trong số đó ta không thể nào không nhắc tới con sông Hương ngọt ngào, mộng mơ trong kinh thành Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đã từng có nhà thơ ngợi ca vẻ đẹp của dòng sông trữ tình, ngợi ca vẻ đẹp non sông đất nước:
“Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc nên tranh họa đồ”
Và Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn như thế. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn hiểu biết sâu rộng của mình. Là người yêu quê hương đất nước, gắn bó sâu sắc với xứ Huế mộng mơ cho nên Hương Giang là đối tượng mà Hoàng Phủ Ngọc Tường không thể bỏ qua. Vẻ đẹp của Hương giang đã được nhà văn nhìn nhận qua nhiều khía cạnh khác nhau: Từ phương diện địa lý, văn hóa, thi ca đến chiều dài của thời gian và chiều sâu của không gian. Và dù dưới góc độ nào thì sông Hương vẫn rất tươi đẹp và nên thơ.
Tác phẩm bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được Hoàng Phủ Ngọc Tường viết ở Huế vào năm 1981 được in trong tập cùng tên mang đậm chất sử thi về thiên nhiên qua đó bộc lộ sự gắn bó với quê hương đất nước. Trong tác phẩm, nhà văn thể hiện tình yêu thiên nhiên, tinh thần dân tộc với truyền thống văn hóa lịch sử lâu đời của dân tộc – những điều ông đã dày công tìm tòi, nghiên cứu và tích lũy cả một đời. Tất cả những phẩm chất ấy đã được thể hiện rất rõ qua việc tái hiện lại vẻ đẹp sông Hương như một nhân vật trữ tình, với những nét tính cách phức tạp, biến đổi một cách diệu kì trong không gian và thời gian qua những lời văn giàu chất trí tuệ, kết hợp giữa tự sự và trữ tình tài hoa, mê đắm
Mở đầu bài kí, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã hạ bút viết câu “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất” có nghĩa là sông Hương đã gắn bó với cố đô Huế mộng mơ với nhiều góc độ khác nhau: không gian – địa lý, văn hóa, lịch sử. Nếu tác giả tách sông Hương khỏi thành phố Huế thì sông Hương cũng chỉ là một con sông vô tri, vô giác nhưng khi sông Hương nằm trong thành phố Huế nó trở thành một dòng sông mang một vẻ đẹp rất riêng so với các dòng sông khác trong tổ quốc. Với câu văn “Chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất” đã thể hiện được niềm tự hào của tác giả với dòng sông xứ Huế – dòng sông thi ca đất mẹ. Đó một trong những đặc điểm riêng của Hoàng Phủ Ngọc Tường so với các nhà văn khác.
Đến với vẻ đẹp thơ mộng của sông Hương dưới góc độ địa lý, sông Hương có tới bốn dòng chảy khác nhau ở địa điểm khác nhau với những nét đặc sắc khác nhau mà không trùng lặp với mỗi đoạn chảy khác. Nhưng trước tiên nhà văn muốn giới thiệu đến người đọc khung cảnh Hương Giang ở thượng nguồn. Hình ảnh Hương giang ở thượng nguồn mang đến cho chúng ta điểm nhìn trầm mặc, cổ kính xưa, uy nghi, hùng vĩ, dữ dội. Đó là một vẻ đẹp trầm mặc, cổ kính, sông Hương được ví “như một bản trường ca của rừng già”, đó là một cách so sánh độc đáo, dễ hiểu của tác giả bởi sông Hương là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn hùng vĩ ẩn khuất trong mây bầu trời. Tuy vây, dòng chảy của sông Hương lại hiện lên với những nét tính cách khác nhau, không phải sông Hương lúc nào cũng dữ dội, mãnh liệt và bí ẩn “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn” hay “mãnh liệt qua những thác ghềnh, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn” mà cũng có lúc Hương giang trở nên nhẹ nhàng, dịu dàng, ngọt ngào được thể hiện ở hình ảnh “nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Có lẽ hoa đỗ quyên rừng chính là hình ảnh đại diện của sông Hương trên thượng nguồn mà tác giả đã gửi gắm chăng ? Nó là hình ảnh đẹp nhất, tươi sáng nhất, là màu “đỏ chói lọi” – một gam màu đầy hoang dại ấy mới toát lên được vẻ đẹp đầy sức sống ám ảnh nhưng lại rất đỗi bình dị của Hương Giang. Ta có cảm giác trên khúc thượng nguồn dữ dội đó có điểm xuyết một vài bông hoa đỗ quyên rừng chói lọi, nó sẽ làm mờ đi cái dữ dội, hùng vĩ mang vẻ trầm mặc của Hương giang trên khúc thượng nguồn của dòng sông.
Giữa lòng Trường Sơn hùng vĩ đó, dòng sông đã được nhà văn nhân hóa như “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Với ngòi bút sắc sảo, đậm chất suy tư đa chiều ta thấy được sự phóng khoáng, tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi ông đã lấy hình ảnh của một cô gái Di-gan dân tộc man dại, xinh đẹp để miêu tả Hương giang. Phải chăng tác giả đang muốn cho mọi người thấy được khúc thượng nguồn của dòng sông cũng man dại, cũng kiêu hãnh như cô gái Di-gan man dại hay chăng ? Thế nhưng vừa mới ra khỏi rừng già “sông Hương lại nhanh chóng mang một màu sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, “trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.Không ai khác, chính rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”.
Để kết thúc hành trình vượt núi tìm về kinh thành Huế nhà văn đã đưa ra quan điểm của chính mình để bàn luận “Nếu chỉ mải mê ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đặn bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã trải qua”. Lời tâm sự đó của tác giả như thể nhà văn đang muốn giải thích, thanh minh cho cô nàng “Sông Hương”, lại vừa toát ra vốn am hiểu sâu sắc hành trình gian truân, gian khổ của dòng sông thơ mộng của nhà bút kí tài năng. Nhưng có lẽ cô gái Di-gan man dại đó vô cùng khó hiểu, khó đoán nàng không chỉ mang trong mình những nét tính cách khác nhau: Lúc thì mãnh liệt, dữ dội, lúc lại dịu dàng đắm say. Rồi khi ra khỏi rừng già nàng khóa chặt tâm hồn “không muốn bộc lộ” bằng cách “đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng” và tiếp tục cuộc hành trình của mình bằng thứ tâm trạng “tươi vui”. Đọc đến đây độc giả mới thấy được sự am hiểu sâu sắc về mọi ngóc ngách trên dòng sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường – người am hiểu văn hóa, yêu thiên nhiên quê hương đất nước. Có lẽ đối với ông sông Hương – cố đô Huế như một quê hương thứ hai của ông, gắn bó sâu sắc với sông Hương nặng lòng, ta có cảm giác tình yêu xứ Huế của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường có chút đồng điệu với nhà văn Tô Hoài gắn bó nặng lòng mảnh đất Tây Bắc trong lời tâm sự “Mảnh đất Tây Bắc để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, không thể và không bao giờ quên mảnh đất đau thương mà nhiều hy sinh ấy”. Bằng thứ ngôn từ “lóng lánh bụi vàng”, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm rõ bản sắc của sông Hương. Đó không chỉ là một dòng chảy tự nhiên hình thành từ cấu trúc địa hình mà còn là một dòng sông được ví như con người với vẻ đẹp tâm hồn sâu thẳm, đầy nữ tính.
Nếu như trong thơ Hoàng Cầm hình ảnh sông Đuống hiên ngang, hùng vĩ
“Sông Đuống trôi đi
Một dòng sông lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”
Thì có lẽ Hương Giang đối với Hoàng Phủ Ngọc Tường là dòng sông ngọt ngào, dịu dàng, đắm say. Sau hành trình vạn dặm xa xôi, người tình mong đợi đã đến “đánh thức người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoang dại”. “Người con gái dịu dàng của xứ Huế” đã gây ấn tượng mạnh bằng cách “chuyển dòng liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường con thật mềm”. Cái cách chuyển dòng đột ngột của Hương giang này độc giả mới thấy được sự mềm mại, uyển chuyển đến nhịp nhàng. Tác giả cảm nhận như “Một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó”. Ở đây dòng chày của nàng Hương giang không tuân theo một quy luật nhất định nào cả: Lúc thì nó chảy theo hướng Bắc Nam qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trảm, lúc thì lại đột ngột chuyển sang hướng Tây Bắc “vòng qua đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán” rồi đột ngột “vẽ một vòng cung thật tròn về phía Đông Bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”.
Cứ mỗi điểm sông Hương chảy qua là một lần độc giả được mở mang tầm mắt được hiểu biết thêm về những khu vực địa lý của vùng đất đỏ. Quả đúng như những gì nhà thơ Tố Hữu xúc động ghi lại
“Hương Giang ơi, dòng sông êm
Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình”
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vẽ lên một bức tranh bằng ngôn từ hoàn mĩ, hoàn hảo đến từng chi tiết, từng góc độ của Hương giang đến vậy. Dòng sông ấy vừa “mềm như tấm lụa đào, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi” lại thêm màu nước đa sắc “Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Hương giang lấp lánh, đẹp đẽ là vậy khi màu nước thay đổi theo thời gian trong ngày, khác hẳn với con sông Đà mà nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả thì Đà giang thay đổi màu nước theo mùa nhưng chính những điều đó độc giả lại càng cảm nhận được rõ nét hơn về thiên nhiên tổ quốc Việt Nam đẹp đẽ tới muôn màu. Chúng ta không còn phải chờ đến mùa xuân để ngắm màu “xanh ngọc bích”, cũng không phải chờ đến mùa thu ngắm màu “lừ lừ chín đỏ” nữa mà chỉ trong một ngày cũng đủ để lưu lại những gam màu khác nhau của sông Hương.
Có lẽ xứ Huế sẽ không là “mảnh đất cố đô” nếu thiếu đi vẻ cổ kính trầm mặc của “những lăng mộ vua chúa triều Nguyễn trong lòng rừng thông u tịch và kiêu hãnh”. Bởi sự trầm mặc của dòng sông như nét đẹp văn hóa của người Huế, họ vốn coi trọng yếu tố tâm linh và nhất là sự thành kính với các bậc tiền nhân đi trước.
Sau khi chảy qua lòng đồng bằng thì giờ đây Hương giang đang chảy qua lòng thành phố để ngắm nhìn vẻ đẹp cố đô. Kinh thành Huế chính là “người tình mong đợi” của sông Hương – đó là nơi mà nàng muốn đắm chìm ở đó lâu nhất và ở đó một cách lâu nhất. Chính vì thế khi tạm biệt ngoại ô Kim Long, sông Hương đã “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam – Đông Bắc”. Từ đây sông Hương rạng rỡ như một cô gái trẻ đang vui tươi ngắm nhìn cố đô. Chảy tới Giã Cồn Viên “nàng uốn một đường cong mềm hẳn đi”. Câu văn miêu tả vẻ đẹp của sông Hương khi về tới thành phố Huế nghe thật nhẹ nhàng, lãng mạn và tình tứ như một bản nhạc “slow” tình cảm. Những đường nét mê đắm mềm mại của nàng khiến cho tất cả những ai khi đọc bài bút kí này cũng đều cảm thấy ngỡ ngàng và say đắm trong tình yêu để một lần nào nghe được tiếng “vâng” ngọt ngào đến mức nào ! Đối với sông Hương, cố đô như một người yêu cho nên dòng sông có xu hướng muốn gắn chặt, hòa quyện
Một lần nữa sau lần khẳng định nồng nàn ở đầu thiên tùy bút, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại đầy tự hào khi so sánh sông Hương với các con sông trên thế giới như: sông Đa – Nuýp của Bu – da – pét hay sông Nêva của Nga vì chúng cùng chảy trong lòng thành phố. Nhưng trải qua bao thăng trầm của đất nước, qua các sự kiện lịch sử hào hùng của dân tộc nàng Hương vẫn luôn ngẩng đầu kiêu hãnh bởi “trong tổng thể nàng vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bên sông”.
Nếu như sông Hương chảy trong lòng thành phố với tâm trạng phấn khởi, vui tươi, bịn rịn mãi không rời thì khi rời khỏi thành phố Huế nàng lại mang một tâm trạng lưu luyến không muốn rời xa. Bởi vậy nên nàng chảy thật chậm theo hướng “chếch về phía Bắc, vòng một ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau” – cảnh thôn Vĩ đẹp như trong tranh đã từng được Hàn Mặc Tử miêu tả
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá chúc che ngang mặt chữ điền”
Cảnh đẹp như chốn bồng lai tiên cảnh làm cho sông Hương đã lưu luyến, bịn rịn thì nay lại càng quấn quýt, lưu luyến, bịn rịn hơn nàng nhớ “sực nhớ lại một điều gì đó chưa kịp nói” liền đột ngột đổi hướng “rẽ ngoặt sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố một lần cuối ở góc Bao Vinh xưa cổ”. Khúc quanh bất ngờ này, tác giả đã so sánh như “Một nỗi vấn vương cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Hương giang lãng mạn là thế nhưng với khúc quanh bất ngờ, đột ngột để gặp lại người yêu của sông Hương thì nó phải được ví như “Nàng Kiều quay trở về tìm Kim Trọng để nói lời thề trước khi về biển cả” thì mới đủ diễn tả sự vấn vương, luyến tiếc đến xúc động của Hương giang. Đó là tất cả những gì sông Hương có thể dành tặng cho Huế, dâng hiến cho vùng đất cố đô để khẳng định tấm lòng thủy chung, sắt son của mình – người tình mà nàng suốt đời hướng về. Để đáp lại tình cảm của sông Hương, người dân xứ Huế đã hát lên những câu da dân gian với những “điệu hò” vang lên, tỏa vọng khắp lưu vực sông Hương.
Khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp sông Hương dưới góc độ lịch sử thì ta có thể khẳng định rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn hóa xứ Huế, ông không chỉ nhìn sông Hương trôi ở hiện tại, ngày ngày mang phù sa vun đắp cho cánh đồng Châu Hóa và mang nguồn nước ngọt ngào trao tặng cho người dân xứ Huế, mà ông còn nhìn sông Hương như là khởi nguồn cho những giá trị tinh thần, cho những hào hùng trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Từ thời các vua Hùng. Sông Hương đã là “một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước” trong sách địa dư của Nguyễn Trãi, sông Hương từng mang tên Linh Giang, nó “chiến đấu một cách oanh liệt để bảo vệ vùng biên giới phía Nam của tổ quốc”. Ở thế kỉ XVIII – XIX “Nó đã vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ”, “nó sống hết lịch sử bi tráng của dân tộc với những cuộc khởi nghĩa đẫm máu”. Không dừng lại ở đó trong hai cuộc kháng chống Pháp và chống Mĩ, nó đã chứng kiến những cuộc chiến long trời lở đất hào hùng của cả dân tộc thời Cách mạng tháng Tám 1945 hay nó hứng chịu sự tàn phá khốc liệt của đế quốc Mĩ năm 1975. Sự mất mát mà sông Hương đã trải qua hay chính thành phố Huế hứng chịu nói riêng và của đất nước nói chung “cũng giống với sự mất mát xảy ra đối với nền văn minh Châu Âu khi một số công trình của nền văn minh Hi Lạp và La Mã”. Như vậy sông Hương không chỉ là một dòng sông cảm xúc nữa, mà nó còn là một chứng nhân lịch sử ghi nhận lại toàn bộ tội ác của kẻ thù, ghi lại những chiến công hiển hách vang dội của quân và dân ta trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt, mịt mù. Sông Hương cứ tồn tại mãi mãi như “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công để rồi nó trở về cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng”.
Không phải ngẫu nhiên mà “ca Huế” trên sông Hương lại được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, mà ở đó là “cả một nền âm nhạc cổ điển được hình thành và phát triển song hành với những sinh hoạt âm nhạc cung đình từ đời các vua chúa thời Nguyễn Trãi, trài dài suốt mấy thế kỉ”. Hoàng Phủ Ngọc Tường thật tài tình khi khắc họa sông Hương như “một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, một hình ảnh vừa đẹp vừa bí ẩn, âm vang của sông Hương dưới cái khoảnh khắc trùng của sông nước, vừa thể hiện vẻ tài hoa, sâu lắng của mảnh đất cố đô, tâm hồn của con người nơi đây. Một lần nữa, bằng ngòi bút tài hoa của mình cùng với sự rung cảm mạnh mẽ của con người yêu thiên nhiên, quê hương đất nước, bóng dáng của nàng Kiều năm nào lại xuất hiện “bao năm lênh đênh trên quãng sông với một phiền trăng sầu. Và từ đó những bản đàn đi suốt đời Kiều”. Đây quả đúng là một cách liên tưởng độc đáo đến kì lạ của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Ngoài ra sông Hương còn đi vào trong thi ca, văn chương nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đặt chân đến Huế đều có một khám phá riêng về sông Hương để nhận xét một cách công bằng thì “dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Trong cái nhìn của Tản Đà từ xanh biếc thường ngày nó bỗng biến thành màu “Dòng sông trắng – lá cây xanh”. Trong hồn thơ của bà Huyện Thanh Quan là “Nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng làng”. Hàn Mặc Tử cũng tôn vinh, ngợi ca vẻ đẹp của Hương giang như một ngân hà giữa chốn nhân gian
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?”
Dù trong bất cứ trang văn nào của người nghệ sĩ thì sông Hương cũng mang một vẻ đẹp khiến người khác phải ngỡ ngàng và say đắm không rời.
Bằng vốn hiểu biết sâu rộng về vốn kiến thức địa lý, văn hóa, lịch sử, nghệ thuật kết hợp hài hòa với cảm xúc trí tuệ của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc họa sông Hương đa phương tiện, đa màu sắc trên thi đàn văn chương Việt Nam bằng bút pháp miêu tả, nhân hóa, so sánh, liên tưởng độc đáo hòa quyện cùng giọng văn mượt mà, nhẹ nhàng. Dòng sông khiến cho ai đi qua đây cũng đều muốn một lần đặt chân tới xứ Huệ mộng mơ, để được đắm mình vào cái nên thơ của mảnh đất cố đô.
Sông Hương không chỉ hiện ra với những cái nhẹ nhàng, ngọt ngào, tinh tế góp phần làm cho xứ Huế trở thành một bức tranh sơn thủy hữu tình. Hơn thế nữa sông Hương còn là dòng sông của lịch sử, của thi ca, nghệ thuật. Qua những trang văn tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường ta đã thấy được một công trình thiên nhiên ở xứ Huế mộng mơ. Tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã được viết lên từ một tình yêu thiên nhiên, đất nước da diết của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Với những suy tư đa chiều Hương Giang trong mắt Hoàng Phủ Ngọc Tường là một công trình mỹ lệ mà thiên nhiên ban tặng cho xứ Huế mộng mơ để rồi bất kì ai cũng muốn đặt chân tới thả hồn vào cái nên thơ xứ Huế ngọt ngào.
3. Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường:
Hoàng Phủ Ngọc Tường không phải là nhà văn gốc Huế, ông vốn gốc người Quảng Trị, nhưng từ khi sinh ra ông đã ở Huế và cho đến tận cuối đời ông vẫn gắn bó với đất Huế. Có lẽ cũng chính vì thế mà nhà văn có một tình yêu và sự tìm rất sâu sắc về văn hóa, lịch sử, địa lý của xứ Huế, là cơ sở vững chắc để viết được bài tùy bút này tuyệt đến vậy. Nhà văn luôn sáng tác với một phong cách nghệ thuật độc đáo, tác phẩm của ông luôn mang một sức liên tưởng dồi dào và lối hành văn mê đắm, hài hòa, kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái chất trữ tình và trí tuệ, giữa nghị luận sắc bén và niềm suy tư đa chiều. Chính những đặc điểm ấy ở nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường mà nền văn học Việt Nam mới có được những trang bút ký tuyệt vời có giá trị sâu sắc cho đến tận ngày hôm nay.
Tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông được tại Huế, được in trong tập sách cùng tên, bài bút gồm có ba phần, đoạn trích chúng ta được học nằm ở phần mở đầu, chủ yếu nói về vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của dòng Hương giang lững lỡ giữa trời Huế mộng mơ.
Hoàng Phủ Ngọc Tường viết những trang bút ký này bằng tất cả tình yêu thương cùng cảm xúc dâng trào của mình trong nỗi niềm với Huế – miền đất thơ mộng trữ tình. Hình ảnh sông Hương hiện lên như hình ảnh một cô gái Huế xinh đẹp, diễm tình, mái tóc đen dài như suối, tính cách của cô gái mang đầy màu sắc mới mẻ, có cá tính lúc mạnh lúc dịu dàng uyển chuyển.
Ngay đầu tác phẩm, dưới sự am tường sâu sắc về địa lý, tác giả đem đến cho người đọc người nghe cái vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên đa dạng phong phú và sức quyến rũ của dòng sông. Sông Hương được nhìn nhận trên vẻ đẹp cảnh quan địa lý của xứ Huế và ngược lại vẻ xinh đẹp của thiên nhiên hai bên bờ sông cũng được dòng sông nâng đỡ làm nổi bật hẳn, giữa chúng là sự tương hỗ, phụ trợ cho nhau tạo nên một vẻ đẹp rất Huế, rất thơ mộng. Sông Hương chảy qua ba đoạn lớn, sông Hương chảy giữa lòng Trường Sơn, sông Hương chảy ở ngoại vi thành phố Huế, cuối cùng là sông Hương chảy qua thành phố, và chính lúc lúc này dòng Hương Giang đã in bóng cái vẻ đẹp tuyệt mỹ của kinh thành Phú Xuân.
Sông Hương ở không gian núi rừng Trường Sơn, in bóng những vẻ đẹp mà núi rừng Trường Sơn đã tạo nên, đã góp phần hình thành nên dòng sông xinh đẹp. Và để làm rõ điều này tác giả đã đưa vào bài bút ký ba hình ảnh so sánh và nhân hóa đặc biệt ấn tượng, “sông Hương như một bản trường ca của rừng già”, một hình ảnh so sánh hết sức độc đáo mới lạ, cho thấy cái cá tính của tác giả trong việc liên tưởng rất phong phú và mạnh mẽ đậm chất Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sông Hương mang cái chất hào hùng, dài bất tận, nằm giữa lòng Trường Sơn với bộ mặt vừa hùng vĩ vừa hùng tráng, cũng rất đỗi trữ tình. Tất cả thể trong cái nhịp chảy của nó “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, “mãnh liệt qua những ghềnh thác”, “cuộn xoáy như những cơn lốc”, tác giả sử dụng những động từ mạnh để nhấn mạnh cái hùng tráng của dòng sông. Nhưng không chỉ thế dòng sông cũng chẳng kém phần thơ mộng trữ tình khi chảy qua “những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng” và giữa cái cảnh sắc ấy dòng sông lại mang những phẩm chất khác hẳn “dịu dàng và say đắm”. Cả dòng sông tồn tại như một sinh thể mang những nét tính cách đối lập nhau nhưng vẫn rất hài hòa tạo nên một vẻ đẹp đa dạng phong phú, một sức sống mãnh liệt cho dòng Hương giang.
Nhưng chưa hết, tự cảm thấy vẫn chưa lột tả hết được cái vẻ đẹp, cái tính cách của dòng sông ở đoạn này, nên nhà văn dùng tiếp một hình ảnh nhân hóa đầy sáng tạo, tác giả so sánh sông Hương giống như “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, giống như bộ tộc sống du mục, tự do mạnh mẽ có phần hoang dại, làm ta liên tưởng đến những cô gái với vũ khúc tình tứ, cháy bỏng, say mê lòng người. Dòng sông qua miêu tả của tác giả trở nên có cá tính và tâm hồn khoáng đạt, chính rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Cái cá tính và tâm hồn ấy lại chính là thứ mà dòng sông muốn giấu đi và ẩn mình trong núi ngàn sâu thẳm, ngay khi ra khỏi rừng già, nó đã lập tức kết thúc phần đời hùng tráng ấy tại cửa rừng và ném chìa khóa vào lòng sâu của vực thẳm dưới núi Kim Phụng. Việc Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm đến được vùng thượng nguồn con sông, thể hiện cái sự kỳ công, lòng khám phá không ngừng, cái sự tinh tế trong cảm nhận của nhà văn, thể hiện được quá trình lao động nghệ thuật công phu và khó nhọc của tác giả.
Ngay sau khi ra khỏi rừng già sông Hương đã vặn mình và khoác lên mình một tấm áo với nét đẹp hoàn toàn mới lạ, khiến cho chúng ta hơi ngỡ ngàng, bối rối. Tác giả so sánh vẻ đẹp của sông Hương như “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”, mang trong mình vẻ đẹp dịu dàng đầy trí tuệ, nuôi dưỡng những đứa con xứ Huế, bồi đắp nên nền văn hóa hai bên bờ sông cho cố đô băng dòng phù sa ngọt ngào, ấm áp. Sự lặng lẽ chảy, lặng lẽ cống hiến bồi đắp phù sa để hình thành nên nền văn hóa rực rỡ, giống như một người mẹ hiền lúc nào cũng âm thầm, hi sinh chịu đựng, tất cả vì những đứa con thân yêu, người mẹ ấy chẳng đòi hỏi gì, chỉ mong sao con mình khôn lớn, nay mai tỏa khắp phương trời. Đến đây tác giả đã
Hết phần chảy ở giữa Trường Sơn, sông Hương bắt đầu một giai đoạn mới trong cuộc đời của mình ở vùng ngoại vi kinh thành Huế, đi qua vùng Châu Hóa đầy hoa dại, hết sức lãng mạn, hết sức thi vị. Mang vẻ đẹp của “người gái đẹp”, trong cảm nhận của nhà văn cô gái ấy đang nằm ngủ mơ màng, thì người tình mong đợi đến và đánh thức. Sở dĩ tác giả có liên tưởng như vậy là bởi dòng sông khúc này nước chảy rất êm đềm. Hành trình về xuôi, hành trình chảy ra cửa biển Thuận An của sông Hương giờ đây giống như một cuộc tìm kiếm có ý thức, tìm kiếm người tình trong mộng. Thế nên đoạn chảy này được tác so sánh như cuộc tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đầy đam mê. Đây là hành trình của những người yêu nhau tìm về với nhau, là hành trình của nàng công chúa đi tìm chàng hoàng tử trong mơ. Dòng sông mang trong mình đầy đủ những sức sống mới những vóc dáng mới, chuyển dòng một cách liên tục, “vòng giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Tác giả ngắm nhìn dòng sông mà tưởng tượng đến “người gái đẹp” đang phô ra những đường cong quyến rũ đầy hấp dẫn của mình, đây là dòng liên tưởng đầy sáng tạo và mạnh mẽ của nhà văn.
Sông Hương khi đi qua vùng Châu Hóa không chỉ mang vẻ đẹp mềm mại quyến rũ của người con gái mà còn mang những vẻ đẹp rất đa dạng và phong phú. “Có khi sắc nước trở nên xanh thẳm”, “mềm như tấm lụa”, một vẻ đẹp mềm mại, yên bình đến thế. Rồi dòng sông khi đi qua những ngọn đồi, mặt nước phản quang thành những mảng màu rực rỡ, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, thật kỳ thú và dòng Hương Giang như một bức tranh nhiệm màu, đặc sắc vô cùng. Khi sông Hương đi qua những lăng tẩm thì lại trở nên trầm mặc, cổ thi, tạo cảm giác như dòng sông Hương đang chiêm nghiệm, thành kính, suy nghĩ về lịch sử của những ông hoàng bà chúa xưa kia đã từng huy hoàng như thế nào, và rồi ông Hương bỗng bừng sáng, trẻ trung hơn hẳn khi nghe thấy âm thanh của thành phố.
Cuối cùng tác giả đem đến cảnh sông Hương nằm trong vòng tay của kinh thành Huế như người con gái đang e ấp trong vòng tay của người thương, và lúc chuẩn bị rời xa người yêu. Nhà văn thật tài tình khi sáng tác ra những hình ảnh độc đáo “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”, gợi ra một mối tình mới chớm của người con gái Huế. Rồi thì “dòng sông mềm hẳn đi như tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”, như tấm lòng thẹn thùng, bẽn lẽn của cô gái Huế trong tình yêu đầu đời.
Tác giả so sánh sông Hương như một điệu “slow” của xứ Huế, chậm rãi, như một “mặt hồ yên tĩnh”, “điệu chảy lặng lờ của nó ngang qua thành phố… Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, những câu văn mang theo âm nhạc chậm chạp hòa vào lòng người đọc, du dương, mềm mại, ý nhị, một sức liên tưởng đầy thi vị, lãng mạn. Rồi thì nhà văn lại tiếp tục có những liên tưởng mới hết sức thú vị “sông Nê-va cuốn trôi những phiến băng lô xô”, “mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng”. Tác giả muốn hóa mình thành con chim hải âu trôi nhanh ra biển trên chiếc tàu thủy tinh ấy, rồi cuối cùng chẳng kịp nói lời tạm biệt với lũ bạn trên bờ vì tàu trôi nhanh quá, thế tác giả mới thấm thía nhớ về sông Hương và “chợt thấy quý cái điệu chảy lặng lờ của nó khi đi qua thành phố”. Kiểu chảy lững lờ ấy khiến ta liên tưởng đến một cô gái, bẽn lẽn nửa muốn đi, nửa lại muốn ở, chẳng nỡ rời xa vòng tay yêu dấu của người thương, lòng đầy vấn vương. Với lối viết sinh động và sáng tạo, tác giả biến dòng Hương giang thành một “nàng thơ” vừa cá tính lại vừa e ấp, dịu dàng đắm mình trong tình yêu cùng chàng trai xứ Huế mộng mơ.
Hơn thế nữa sông Hương còn là nhân chứng cho lịch sử biết bao thăng trầm hưng thịnh của cố đô Huế “vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân”, những dấu ấn, những sự kiện không bao giờ có thể lãng quên của dân tộc Việt Nam, đều được sông Hương chứng kiến và ghi lòng tạc dạ. Sông Hương chính là biểu tượng đẹp đẽ nhất xây dựng cho Huế một hình ảnh xinh đẹp thơ mộng, suốt mấy nghìn năm văn hiến của đất nước. Một vẻ đẹp lặng lờ, ẩn sâu trong đó là nét cá tính, sông Hương đã có từ lâu nhưng nó chưa bao giờ già cỗi, nó vẫn mang trong mình nhiệt huyết yêu đương của cô gái đang độ xuân thì.
Bằng óc sáng tạo, liên tưởng tài tình, sự quan sát tỉ mỉ, tinh thế, sự am hiểu tinh tường về các kiến thức xã hội, văn hóa của xứ Huế tác giả Hoàng phủ Ngọc Tường đã cho ra đời một tác phẩm bút ký thật đặc sắc, như họa vào lòng người đọc người nghe một bức tranh Huế và sông Hương tuyệt đẹp, vẻ đẹp vừa gần gũi, lại thiêng liêng, nhưng cũng rất dịu dàng e lệ. Tất cả như hướng độc giả đến cái khao khát một lần được về thăm Huế, đứng trên cây cầu Tràng Tiền vắt ngang sông Hương mà chiêm ngưỡng dòng sông cho thỏa nỗi lòng.
THAM KHẢO THÊM: