Việt Bắc là những lời thơ đầy thiết tha của Tố Hữu khi phải chia tay vùng đất tình nghĩa gắn bó trong những năm kháng chiến gian khổ. Dưới đây là bài viết phân tích 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu hay nhất.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:
Mở bài:
Giới thiệu ngắn gọn về tác giả Tố Hữu và tác phẩm Việt Bắc
Dẫn dắt người đọc vào 8 câu thơ mở đầu với nội dung khái quát nhất.
Thân bài:
– Đoạn thơ là lời chân tình giữa người ở lại và người ra đi. ở đây là đồng bào Việt Bắc với cán bộ kháng chiến
“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha”.
– Cách xưng hô “mình-ta” như tình yêu lứa đôi trong dân gian cho thấy mối quan hệ gắn bó giữa người đi và ở.
– Điệp ngữ câu hỏi tu từ “Có nhớ ko” như đưa vào kí ức của người đi và người ở trở lại năm tháng gắn bó.
– “Mười lăm năm” là khoảng thời gian dài với tình cảm nồng nàn, thắm thiết
– Trong chặng đường thử thách quân và dân cùng chia ngọt sẻ bùi:
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
– Người ra đi khẳng định tình cảm sâu nặng với con người Việt Bắc:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.. “
– Đại từ “tiếng ai” tạo nên một cõi mung lung trong nỗi nhung
– Các tính từ diễn tả xác thực tấm lòng của thi sĩ lúc chia xa.
– Hình ảnh hoán dụ “Áo chàm” thể hiện tình cảm gắn bó tuy giản dị, nghèo túng nhưng sâu đậm
– Tâm trạng của người rời đi là sự đan xen giữa niềm vui trong thắng lợi và nỗi buồn trong xa cách.
+ Về nghệ thuật: thể thơ lục bát truyền thống; thể hiện tiếng nói mộc mạc: nhạc điệu thơ sâu lắng; sử dụng vần thanh điệu… liên kết với nhịp thơ trình bày nội tâm sâu xa của con người
Kết bài:
Khẳng định tình cảm gắn bó quyến luyến của kẻ đi người ở và là cơ sở để nhớ về kỉ niệm trong những đoạn thơ tiếp theo.
2. Phân tích 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu hay nhất:
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị tiêu biểu của văn học Việt Nam. Thơ Tố Hữu có giọng điệu tình cảm thiết tha ngọt ngào, đậm đà tính dân tộc, là tấm gương cao đẹp phản chiếu tâm hồn của người chiến sĩ luôn hi sinh vì dân tộc, vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân. Tác phẩm “Việt Bắc” được viết năm 1954 nhân sự kiện đặc biệt Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu rừng núi Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội. Đây là một khúc ca hùng tráng cũng là một khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến gian khổ và con người tình nghĩa nơi đây với sự gắn bó sâu sắc với nhân dân với đất nước trong niềm tự hào dân tộc. Đặc biệt 8 câu thơ đầu là khug cảnh chia tay đầy quyến luyến và xúc động trong khung cảnh núi rừng Việt Bắc.
Tình cảm ấy được thể hiện ngay trong những câu thơ sau:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Có đến bốn chữ “nhớ” trong đoạn thơ cho thấy nỗi nhớ ấy vô cùng thật da diết của tình cảm gắn bó sâu sắc với vùng đất đầy kỷ niệm ấy. Nhà thơ đã diễn tả nỗi nhớ bằng tiếng nói ngọt ngào của khúc hát đối đáp giao duyên nam nữ trong dân ca: “mình – ta” cho thấy đây không chỉ là thứ tình cảm nhất thời mà nó đã trở nên thiêng liêng, chung thủy như người thân thiết, ruột thịt. Không còn là quân và dân mà là những người một nhà cùng chia sẻ giúp đỡ nhau lúc khó khắn gian khổ nên đến khi chia tay này không nỡ rời. Bốn câu thơ với hai câu hỏi tu từ nói lên đạo lí Việt Nam nhắc nhở mọi người nhớ về những tình cảm mà mình đã từng sẻ chia và trải qua với bất cứ con người vùng đất nào mình gắn bó. Cụm từ “mười lăm năm” là một khoảng thời gian dài thậm chí là nửa đời người của người lính trẻ. Bởi thứ ân tình khiến người ta khi “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Bốn chữ “mình” cùng bốn chữ “nhớ” hòa quyện cùng chữ “ta”, trở thành sợi chỉ xuyên suốt tác phẩm Việt Bắc và cũng đã trở thành chủ đề của bài thơ.
Sau khúc hát mở đầu là cảnh tiễn đưa trong nỗi nhớ với âm thanh và màu sắc da diết đậm đà thủy chung, khiến bước chân bồn chồn khiến những cái nắm tay trở nên lưu luyến. “Tiếng ai” chẳng phải là câu hỏi, mà là cách nói với nỗi niềm “bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi” bởi lẽ với người lính Việt Bắc đã trở thành cội nguồn, thành tình yêu.
Từ láy bâng khuâng cùng bồn chồn được sử dụng rất hay ở câu thơ này không chỉ thể hiện nỗi niềm mà còn cả những chuyển động trong tâm trạng. Và đến khi hình ảnh chiếc áo chàm bằng thủ pháp hoán dụ xuất hiện cảm xúc như vỡ òa. Màu áo chàm là là màu áo của người dân Việt Bắc son sắt như chính tấm lòng của con người nơi đây khiến người ra đi khó phai nhòa.
Câu thơ “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” quả là hình ảnh tả thực khi mà trong giờ phút này mặc dù có quá nhiều điều bày tỏ nhưng lại không biết nói gì trước mà được giấu kín trong tim. Nhưng sự im lặng ấy chính cái thứ biểu lộ hiệu quả tấm lòng thương nhớ con người.
Bằng việc sử dụng đại từ linh hoạt cùng thể thơ lục bát, những câu hỏi tu từ cùng nhịp thơ thiết tha Tố Hữu đã khắc cuộc chia tay đầy cảm xúc của người dân Việt Bắc với người chiến sĩ khiến người đọc thấy đồng cảm vô cùng.
3. Phân tích 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu ý nghĩa nhất:
Việt Bắc là bài thơ trữ tình thể hiện tình cảm sâu nặng của người cán bộ sắp rời Việt Bắc đối với căn cứ địa cách mạng của nước nhà. Đây không chỉ là cảm xúc riêng của thi sĩ mà còn là tâm trạng chung của mọi dân quân ta thời khắc chia xa. Đặc biệt tám câu thơ đầu tiên là những cảm xúc sâu lắng nhất khi người ở lại và kẻ rời đi chia tay nhau.
Bài thơ Việt Bắc đã tạo ra một tình huống đặc biệt qua đó thể hiện cảm xúc trữ tình dạt dào trong cuộc chia tay lưu luyến giữa người dân thiên nhiênViệt Bắc và người cán bộ trở về trong nỗi hụt hẫng. Đó cũng là cuộc chia tay sau mười lăm năm ấy gắn bó thiết tha mặn nồng. Nhà thơ vận dụng cặp đại từ nhân xưng mình – ta tự nhiên mang nhiều sắc thái ngữ nghĩa khiến bài thơ tràn đầy cảm xúc với những lời nhắn nhủ, dặn dò thể hiện tình cảm sâu rộng với yếu tố trữ tình sử thi rõ rệt. Hình thức đối đáp là một dụng ý nghệ thuật nhằm biểu hiện tâm trạng của con người và tạo nên sự dư âm của cảm xúc trữ tình.
“Mười lăm năm” là khoảng thời gian họ đã từng cùng nhau nếm mật nằm gai, chia ngọt sẻ bùi. Và giờ đây, trong giờ phút chia li, họ cùng nhau nhớ lại biết bao kỷ niệm của những ngày đã qua. Điệp ngữ câu hỏi tu từ “Có nhớ ko” như đưa vào kí ức của người đi và người ở trở lại năm tháng gắn bó. Họ khẳng định sự bền chặt của tình cảm quân dân và hứa hẹn một ngày mai tươi sáng.
Như vậy bên cạnh việc sử dụng lối hát giao duyên của ca dao tạo cách xưng hô thân mật, trìu mến phù hợp ngữ cảnh là cán bộ đã trở về khiến cảm xúc con người cũng bối rối, nhìn cây mà nhớ núi, nhìn sông lại nhớ đến nguồn. Người ở lại nhìn những nơi năm xưa từng gắn bó lại nhớ nhung người ra đi. Với người ra đi thì nghe câu hát nhớ về nét hiền hậu, hình ảnh giản dị của người ở lại:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Các tính từ “ tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn” biểu đạt rõ nhất cảm xúc lúc này của người đi kẻ ở. Nghe tiếng hát nặng tình nghĩa, mang những cảm xúc da diết trong lòng khiến bức chân cũng trở nên quyến luyến chẳng muốn rời đi. Nghệ thuật hoán dụ với hình ảnh “áo chàm” là muốn nói đến những người dân Việt Bắc trong tấm áo đặc trưng giản dị nhưng sâu đậm bịn rịn quyến luyến mà tiễn bộ đội về thủ đô. Người vừa đi vừa nắm tay nhau mà chẳng biết nói gì. Nhưng có lẽ không cần nói nhiều bởi cả hai bên đều biết ý nghĩa trong lòng nhau sau những tháng năm bên cạnh, gắn bó với nhau. Tâm trạng của người rời đi là sự đan xen giữa niềm vui trong thắng lợi và nỗi buồn trong xa cách.
Bài thơ được sử dụng thể thơ lục bát truyền thống; thể hiện tiếng nói mộc mạc của truyền thống cùng nhạc điệu thơ sâu lắng, sử dụng vần thanh điệu khóe léo tinh tế… liên kết với nhịp thơ nhẹ nhàng da diết đã trình bày nội tâm sâu xa của con người không chỉ riêng tác giả mà tất cả những người lính và người dân từng gắn bó với nhau.
Chỉ với tám câu thơ ngắn ngủi khung cảnh chia tay đầy cảm xúc đã được biểu lộ cụ thể trước mắt người đọc. Đó là những cảm xúc cơ sở để người ở và người đi nhớ về những năm tháng nếm mật nằm gai với nhau trong mười lăm năm kháng chiến
4. Phân tích 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu ngắn gọn nhất:
Đến với thơ Tố Hữu, người đọc sẽ cảm nhận được một hồn thơ mang đậm tính dân tộc. Điều đó được thể hiện trong bài thơ “Việt Bắc” đặc biệt là tám câu thơ đầu của bài thơ.
Tính dân tộc của bài thơ Việt Bắc thể hiện trước hết ở kết cấu đối đáp kiểu ca dao giao duyên. Rất nhiều bài ca dao xưa thường dùng kiểu đối đáp để diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình:
Mình nói với ai mình hãy còn son
Ta đi qua ngõ, thấy con mình bò
Mình nói với ta mình chửa có chồng
Ta đi qua ngõ mình bồng con ra
Tố Hữu đã vận dụng kiểu kết cấu tuyệt vời ấy trong một bài thơ mà mục đích của nó không phải để nói tới tình yêu lứa đôi mà là một bài thơ ngợi ca mối quan hệ khăng khít gắn bó giữa chính phủ cách mạng và quê hương cách mạng với nhân dân Việt Bắc.
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Bốn câu đầu là lời Việt Bắc tỏ bày với người cán bộ chiến sĩ khi chia tay:
Điệp từ “nhớ” luyến láy trong cấu trúc câu hỏi tu từ đồng dạng, tràn đầy thương nhớ. Cách xưng hô “mình – ta” được tác giả đã sử dụng từ ngữ diễn tả trong tình cảm quân dân. Mười lăm năm gắn bó với biết bao tình cảm tha thiết, mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Câu hỏi chất chứa tình cảm lưu luyến, bao hàm lời dặn dò kín đáo: Đừng quên cội nguồn Việt Bắc – cội nguồn của cách mạng.
Bốn câu tiếp theo là nỗi lòng của người về:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
“Bâng khuâng, bồn chồn” là hai từ láy gợi cảm diễn tả trạng thái tâm lý tình cảm: buồn vui, luyến tiếc, nhớ thương, chờ mong… lẫn lộn cùng một lúc. Mười lăm năm đồng bào Việt Bắc chung sống cùng những người cán bộ chiến sĩ là mười lăm năm gian khổ có nhau, mười lăm năm đầy những kỷ niệm chiến đấu. Giờ khi phải chia tay rời xa để làm nhiệm vụ mới về tiếp quản tại thủ đô, biết mang theo điều gì, biết lưu lại hình ảnh nào, tâm trạng của người về do vậy không tránh khỏi là nỗi niềm bâng khuâng khó tả.
“Áo chàm đưa buổi phân li” là một ẩn dụ – màu áo chàm, màu áo xanh đen là màu áo đặc trưng của người miền núi Việt Bắc – tác giả hướng nỗi nhớ Việt Bắc qua hình ảnh cụ thể “áo chàm”, chiếc áo, màu áo bình dị của vùng quê nghèo thượng du đồi núi nhưng sâu nặng nghĩa tình, đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước.
Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” đầy tính chất biểu cảm – “không biết nói gì” không phải không có điều để giải bày mà chính vì có quá nhiều điều muốn nói không biết phải nói điều gì. Ba dấu chấm lửng đặt cuối câu là một dấu lặng trên khuôn nhạc để tình cảm ngân dài, sâu lắng.
Như vậy, tám câu thơ đầu của bài thơ “Việt Bắc” đã thể hiện được tình cảm sâu sắc của đồng bào Việt Bắc và chiến sĩ cách mạng. Đoạn thơ tiêu biểu cho tính dân tộc trong thơ của Tố Hữu.
THAM KHẢO THÊM: