Qua 6 câu thơ đầu bài thơ Khi con tu hú, đã cho chúng ta thấy nhà thơ Tố Hữu không chỉ cảm nhận mùa hè bằng tất cả các giác quan, mà còn bằng cả trái tim yêu đời. Sau đầy là các mẫu Phân tích 6 câu thơ đầu bài Khi con tu hú của Tố Hữu.
Mục lục bài viết
1. Phân tích 6 câu thơ đầu bài Khi con tu hú của Tố Hữu hay:
Sáu câu thơ đầu trong bài thơ ‘Khi con tú hú’ của tác giả Tố Hữu đã miêu tả thật đẹp và sinh động về thiên nhiên mùa hè.
‘Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần.
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào.
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…’
Thực tế, khi chúng ta lắng nghe hiện tại và nhớ về quá khứ của các tù nhân chiến tranh cách mạng, vẻ đẹp của thiên nhiên trở nên chân thực hơn, tương phản với cảnh tù đày khắc nghiệt của họ. Bức tranh thiên nhiên này bắt đầu bằng dòng thơ ‘Khi con tu hú gọi bầy’. Cũng như trong thơ xưa, các nhà thơ, nhà văn thường sử dụng những hình ảnh chọn lọc để tạo điểm nhấn, miêu tả độc đáo trong tác phẩm của mình. Tố Hữu bắt đầu bằng tiếng chim hót líu lo gọi đàn, chạm đến trái tim người đọc, báo trước mùa hè đang đến. Những bức ảnh thiên nhiên được tác giả lựa chọn như lúa, trái cây đều rất đẹp trong trạng thái “chín và ngọt dần”. Hình ảnh thơ tiếp theo là “khu vườn râm mát, ve sầu bàng bạc, ngô sàng, nắng đào, trời xanh, sáo diều bay”. Bức tranh thiên nhiên được vẽ là một bức tranh hoàn hảo, đẹp đẽ với những âm thanh, màu sắc đẹp đẽ hài hòa. Độc giả như nghe thấy tiếng chim tu hú, tiếng ve kêu, thấy màu lúa chín, trái chín dần, màu xanh mướt của khu vườn rợp bóng mát, màu đào của nắng, màu vàng tươi của ngô. Hình ảnh chiếc sáo diều bay lơ lửng trên bầu trời dường như tượng trưng cho sự tự do, hạnh phúc, trái ngược với hoàn cảnh của nhà thơ lúc bấy giờ. Ngoài ra, bức tranh thiên nhiên này có thể là bức tranh tưởng tượng hoặc hồi tưởng về thời gian tự do ngày xưa của nhà thơ. Hình ảnh thiên nhiên là tâm điểm khao khát được tự do, thoát khỏi ngục tù của tác giả.
Nói cách khác, sáu dòng đầu của bài thơ ‘Khi con tu hú’ tái hiện hình ảnh thiên nhiên mùa hè một cách rất chân thực và sống động.
2. Phân tích 6 câu thơ đầu bài Khi con tu hú của Tố Hữu ý nghĩa:
‘Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần.
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào.
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…’
Người lính này nhớ mình đã ở giữa chốn tù, nghe tiếng ngân và sân bắp phơi đầy. Đó là những cảnh vật, âm thanh, màu sắc của đời sống ngày thường nhưng tại sao nhà thơ lại nhớ đến và muốn nhìn thấy? Ánh sáng thiên nhiên và bầu trời dường như quá xa hoa đối với nhà thơ trong tù này. Bầu trời trong xanh với tiếng ve kêu còn xen lẫn hình ảnh một đôi chim diều sáo bay lượn trên bầu trời, tượng trưng cho sự phấn khích và khao khát được bay lượn tự do cùng thiên nhiên của tác giả. Để một nhà thơ có thể vẽ nên một bức tranh thiên nhiên sống động, trong lành và sinh động như vậy thì phải có một tâm hồn yêu thiên nhiên, khao khát được hòa mình với thiên nhiên và sống trong đó. Thiên nhiên tươi đẹp, nên thơ hiện ra ở đó được tưởng tượng không phải qua con mắt của nhà thơ mà qua hình ảnh tu hú gọi đàn. Nhà thơ sử dụng năm giác quan của mình để nghe, ngửi và cảm nhận tất cả âm thanh, hình dáng và màu sắc của mùa hè. Chỉ trong sáu câu thơ, nhà thơ đã vẽ nên khung cảnh một làng quê yên bình như bao làng quê Việt Nam khác. Trước khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp ấy, tác giả càng thấy tiếc cho số phận của chính mình, thắc mắc tại sao con người lại bị chôn vùi trong những nhà tù bốn bức tường cô độc, không thể thoát ra được, trong khi chim ngoài đồng lại có thể bay lượn tự do. Trong cảnh bị giam cầm, những mùa ngô lúa và màu rời xanh bỗng trở nên quý giá vô cùng, những tông màu bình dị nhất bỗng trở nên lấp lánh, tỏa sáng thật huyền ảo diêu kì. Trẻ trung và yêu đời, đam mê khát vọng sống và khát vọng tự do. Nhà thơ bị đày vào ngục tối, nhưng tâm trí bên ngoài nhà tù vẫn có cảm giác và cảm hứng này.
3. Phân tích 6 câu thơ đầu bài Khi con tu hú của Tố Hữu đặc sắc nhất:
Bài thơ này có mười câu, nhưng đoạn đầu lại có tận sáu câu:
‘Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần.
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào.
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…’
Đây là khung cảnh mùa hè điển hình ở một làng quê Việt Nam. Nhưng bức tranh hiện thực này mở ra qua hai cấp độ: lắng nghe và ghi nhớ, hiện tại và quá khứ, điều gì sẽ đến và điều gì đã qua. Hôm nay nhà thơ nghe thấy tiếng thu hú, là âm thanh mà tác giả chợt nghe được sau khi bị giam trong tù (‘Khi con tu hú gọi bầy’). Sở dĩ có cảm giác đột ngột này là vì nó xuất hiện trong một khung cảnh không gian đặc biệt, hiếm khi có thể nghe thấy âm thanh của cuộc sống thường ngày. Cảm giác này có thể so sánh được với cảm giác mà tác giả Nhật ký trong tù khi nghe tiếng sáo (‘Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu’)? Nó lạ và rất ấn tượng. Tu hú gọi đàn báo hiệu rằng mùa hè đã đến. Tuy nhiên, tác giả không nhìn thấy điều này xảy ra như thế nào. Thay vào đó, vốn sống và sự gắn bó với từng thôn quê được huy động. Chính trí tưởng tượng của nhà thơ đã lấp đầy khoảng trống giữa bốn bức tường lạnh lẽo, và người đọc không hề cảm thấy bị ép buộc hay gò bó chút nào. Mạch thơ rất tự nhiên, như không hề có sự cố tình lắp ghép nào.
Hai dòng thơ, rồi bốn dòng thơ nối tiếp. Mỗi khi có tiếng chim xuất hiện thì mùa màng, cây ăn quả cũng theo sau. Vì điều này là quy luật tự nhiên nên nó vẫn giữ nguyên qua nhiều thế hệ. Vì vậy, tiếng chim tu hú gọi đàn còn là tiếng chim gọi mùa nữa. Điều đó thực sự gây được sự xôn xao trong lòng tác gỉa. Ở đây, người đọc cần chú ý đến độ chín của lúa và độ ngọt của cây ‘đang chín’ và ‘ngọt dần’. Nếu thay vào đó là từ ‘đã chín’ và’ ngọt rồi’ thì bài thơ sẽ khác, đứng yên và nhanh chóng đông cứng. Nhưng tại đây, khi một con chim được miêu tả như đang bay, một bông hoa được miêu tả như đang chớm nở, và nó đang mỉm cười, đó là cái nét động của thơ ca và hội họa. Nét động này có được ở đây là nhờ tài trí của nhà thơ nhưng cũng vì tình yêu của nhà thơ đã yêu mến nó. Nghe tiếng chim hót, nhìn thấy sức sống của cây cối, nhìn lúa lớn lên và cành non rung động, điều đó chỉ có thể có được đối với những người yêu đời, yêu sự sống đến mức buồn bã, thắt lòng.
Chưa kể về tính uyển chuyển, nhịp nhàng, khả năng biểu đạt cảm xúc phong phú mà thơ Lục Bát mang lại. Thể thơ này có hình thức cố định và nhưng rất đa dạng. Ví dụ, trong bốn câu thơ đầu, nếu xét cấu trúc theo tiêu chí giác quan, mỗi cặp khổ thơ 6/8 vừa gồm thính giác cả thị giác, tạo nên âm thanh giục giã mùa màng bước vào ngày hội.
Nếu bốn dòng thơ đầu nói về mùa hè ríu rít và cây trái tươi tốt thì hai dòng thơ tiếp theo tưởng như chẳng liên quan gì đến bầu không khí này khi nói về những con diều sáo và màu trời trong xanh. Nói cách khác, hai câu Trời xanh càng rộng càng cao/Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…’ là những nốt thăng lên từ giai điệu sâu lắng của bốn câu trước.
Để giải thích vì sao cảnh quê trong bài thơ lại chân thực và đẹp đẽ đến vậy, hãy xét hai điều: Bản thân cảnh sắc nông thôn rất đẹp, nhất là vào mùa thu hoạch, khơi dậy trong lòng người một cảm giác ấm áp, no đủ. Tuy nhiên, trong trường hợp của bài thơ này, điều thứ hai mới là quan trọng. Người lính-nhà thơ bị cầm tù vì yêu, mơ về nó, thấy nó trong tầm tay. Bức tranh này là một bức tranh về tự do, sự tự do và khát khao tự do thật tuyệt vời và bình dị như một chân lý đơn sơ.
Một trong những thành công của tác giả Tố Hữu là ông biết cách phát triển vượt bậc cái tôi bên trong của mình, một cái tôi giàu cảm xúc và giàu trí tưởng tượng. Khi đọc ‘Khi con tu hú’, ta có cảm giác đó vừa là một bài dân ca, vừa là không phải một bài hát dân ca mà chính xác hơn là sự kết hợp hết sức hài hòa giữa thơ mới và ca dao.