Hai khổ thơ cuối của Tràng Giang không chỉ mở ra trước mắt ta khung cảnh sông nước bao la mà còn bộc lộ cảm xúc của nhà thơ. Hai khổ thơ gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn man mác, nhưng nỗi buồn ấy cũng thật đẹp bởi chúng đều là những cảm xúc quen thuộc.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích khổ 2 bài thơ Tràng Giang:
1.1. Mở bài:
Giới thiệu tác giả Huy Cận, tác phẩm Tràng Giang, vị trí đoạn trích.
1.2. Thân bài:
1. Khái quát chung
– Giới thiệu tình huống sáng tạo
– Nội dung, nhan đề
Được viết vào một buổi chiều thu năm 1939 khi Huy Cận vừa tròn 20 tuổi, “Tràng Giang” tiêu biểu nhất cho hồn thơ Huy Cận. Như một trạng thái của tâm trí, mọi đau khổ đều là u sầu âm thầm.”
+ “Trường Giang” trước hết là bức tranh “trời rộng sông dài”, sự bao la của những dòng sông muôn thuở của quê hương Việt Nam. Ngay nhan đề bài thơ: hai chữ “Tràng giang” đã mang sắc thái cổ kính từ xa xưa. “Tràng Giang” không phải là “Trường Giang” vì vần “ang” mới gợi sự mênh mông vô tận, nối dài đến bến bờ bao la. Nhưng khung cảnh này sẽ có nếu tình yêu không quá nặng nề và u sầu. Trong cảnh là tình, tình hòa quyện vào cảnh tạo nên cảnh đẹp và cảm xúc đẹp.
2. Nêu suy nghĩ của bạn
a) Nỗi khổ 3: Cô đơn, buồn tủi về sự lênh đênh, lênh đênh vô định giữa kiếp người
– Hai câu thơ: “Bao la… thân mật”
– Không một con phà, không một chiếc cầu nhỏ nối đôi bờ. Hàng loạt từ “không” lần lượt xuất hiện đã phủ định tất cả những gì được kết nối, chỉ còn lại sự trống rỗng vô tận: hai thế giới khác biệt ở hai bên. Đâu đây chỉ còn lại “bờ sậy vàng” và bèo nổi. Ấn tượng về sự chia xa, cách biệt càng được tô đậm qua hình ảnh bồng bềnh.
b) Cảm nhận nỗi đau cuối cùng: nỗi day dứt day dứt trước buổi hoàng hôn khủng khiếp
* 2 câu đầu:
– Nội dung hai dòng đầu khổ thơ cuối là không gian bao la, hùng vĩ của buổi chiều tà.
– Thiên nhiên bộc lộ một vẻ đẹp lạ lùng: Vào những buổi trưa hè, những đám mây trắng như nụ bông nở trên bầu trời, nắng chiều trước khi tắt thường chói chang nên chiếu xuống núi, mây chồng chất tạo nên vẻ đẹp lạ lùng. lung linh như núi bạc. Một vẻ hùng vĩ, uy nghiêm.
– So sánh với câu thơ của Lý Bạch: “Cô nhân họa vô tận/ Vẻ đẹp muôn đời”, câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan: “Gió cuốn đi cánh chim mỏi”. Huy Cận cũng nhiều lúc như bỏ lòng mình trong quê hương, trong vũ trụ bao la, nhưng chính nỗi đau ấy lại đau đáu trong những cảnh đời hiện tại.
* 2 câu kết:
– Hai từ “gợn” gợi cảm giác đồng nhất những con sóng dâng trên sông với những gợn lăn tăn trong lòng tác giả.
– Hai câu thơ gợi nhớ ý thơ của Thôi Hiệu: “Nhật lăng quan thị trấn/Yên ba giang thượng sư buồn”. Nhưng nếu người xưa nhìn khói sóng trên sông mà nhớ quê thì Huy Cận không cần chất xúc tác ấy. Rõ ràng, nỗi buồn không đến từ bên ngoài, mà là nỗi buồn từ bên trong cứ thế trào dâng. Già xa quê mà nhớ quê, còn Huy Cận đứng trước quê hương mà rơm rớm nước mắt. Tại sao? Không chỉ nhớ về một vùng quê mà đó là tâm trạng của một thế hệ trẻ khi đất nước chìm trong vòng nô lệ.
– Trong khi Thế Lữ, Chế Lan Viên chọn sống trong cõi mộng với “tiếng sáo”, với “hương lạnh một mình trong vườn” thì Vũ Hoàng Chương đắm chìm trong thuốc phiện, xa hoa, còn Huy “Tràng Giang” của Bác thực sự là “bài ca dọn đường cho tình quê” (Xuân Diệu)
3. Đánh giá
– Đoạn thơ có sự kết hợp tuyệt vời giữa cảnh và tình, hai mà như một, không chỉ gợi về khung cảnh làng quê Việt Nam mà còn là tình cảm của một người con trước đất nước.
-Nghệ thuật: Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. Hình ảnh thơ không được gọt giũa, sử dụng nhưng vẫn có sức gợi vô tận. Chất thơ của Thôi Hiệu xưa đã trở thành chất lãng mạn của Huy Cận hôm nay.
1.3. Kết bài:
Đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật
2. Phân tích 2 khổ cuối của bài thơ Tràng Giang hay nhất:
Thơ là nhạc cụ của tâm hồn, của nhịp tim. Thơ thể hiện rất thành công mọi cung bậc cảm xúc của con người, vui, buồn, cô đơn, tuyệt vọng… Có những tâm trạng con người chỉ có thể diễn tả bằng thơ. Bởi vậy, thơ không chỉ nói thay nỗi lòng của ông mà còn nói lên nỗi buồn xa xưa của cả một thế hệ với cái tôi cô đơn, bế tắc trước cảnh nước mất nhà tan. “Tràng Giang” là một bài thơ như thế. Điều này đặc biệt được thể hiện rõ ở hai khổ thơ cuối của tác phẩm.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Không sai khi nói rằng, đối với một nhà thơ, thơ là sự bày tỏ những cảm xúc, những suy nghĩ, nhưng chỉ có những cảm xúc chân thành mãnh liệt mới là cơ sở để cho ra đời một tác phẩm nghệ thuật chân chính và giàu cảm xúc. Càng thăng hoa mãnh liệt, chất thơ càng có sức chinh phục và ám ảnh trái tim người đọc. Mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà thơ khi sáng tạo nghệ thuật. Huy Cận đã không ngừng tìm tòi sáng tạo để tìm ra con đường riêng cho mình và ông đã khẳng định được vị trí của mình trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Tiêu biểu cho phong cách Huy Cận có thể kể đến “Tràng Giang” theo lời kể của Huy Cận, bài thơ được sáng tác vào một buổi chiều thu năm 1939 khi tác giả đứng ở bờ nam bến Chàm, trước cảnh sông nước mênh mông sóng nước, bao cảm xúc thời đại ùa về khi nhà thơ thấy cái tôi của mình quá nhỏ bé so với vũ trụ bao la nên đã gửi gắm tất cả vào bài thơ này.
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Trong mênh mông của đất trời, nhà thơ Huy Cận không tìm được một tiếng nói đồng cảm, không ai thấu hiểu được tâm trạng buồn tủi ẩn chứa trong tâm hồn nhà thơ. Nỗi buồn, nỗi buồn không thể bày tỏ, chỉ có thể giữ cho riêng mình nên càng đau đớn, khắc khoải. Cảm giác cô đơn khiến nhà thơ muốn tìm về một mối thân tình. Nhưng càng tìm càng không thấy, hai câu thơ với hai tiếng “không đò”, “không cầu” như muốn khoét sâu thêm sự mênh mông của sông nước và nhấn mạnh sự thiếu vắng sự giao lưu, gặp gỡ giữa con người với nhau. Hai bên bờ sông lạnh giá, từ hoang sơ như một bờ non thơ ngây đến cổ tích, hoàn toàn không có dấu hiệu của sự sống mà chỉ có con người hiện diện ở đó. Cái tôi cô đơn của tác giả đang đối diện với cái vô cùng, cái vô tận, cái vô tận, cái vô thủy của không gian và thời gian. Nhìn đâu cũng chỉ thấy “lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng”, từ đó Huy Cận đã bộc lộ nỗi lòng, bày tỏ những cảm xúc sâu sắc về tình yêu quê hương đất nước.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Câu thơ “Tầng mây cao đùn núi bạc” đẹp mà cũng buồn vì càng tô đậm thêm sự trống vắng, hoang vắng. Hình ảnh từng lớp mây cũng gợi lên những cảm xúc lẫn lộn, xếp chồng lên nhau. Sự xuất hiện của hình ảnh cánh chim trong “bóng tối phía xa” càng làm nổi bật nỗi trống vắng, cô đơn trong tâm hồn thi nhân. Giữa sự hùng vĩ và tráng lệ của mây bạc, cánh chim càng nhỏ dần, nó giống với tâm trạng cô đơn, lạc lõng của nhà thơ giữa cuộc đời rộng lớn.
“Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Người xưa thấy khói sóng trên sông mà nghĩ đến quê hương, lấy khói làm dịp vơi đi nỗi nhớ nhà. Và nỗi nhớ nhà của Huy Cận luôn thường trực trong tâm trí nên chẳng cần cơ hội lấy một điếu thuốc, ông nhớ nhà như muốn thoát khỏi nỗi cô đơn mà ông gọi là lòng quê.
Với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phong cách cổ điển và hiện đại, kết hợp với thể thơ 7 chữ, vần có nhịp điệu miêu tả cảnh ngụ ngôn của “Tràng Giang” nói chung và hai khổ thơ cuối nói riêng thật là bức tranh thiên nhiên độc đáo, cùng với những cảm xúc, tình cảm khó diễn tả của nhà thơ. Như nhà phê bình Hoài Thanh cũng nhận xét: “Huy Cận góp nhặt một chút buồn trong sọt rác để làm nên những vần thơ não nùng. Người ta sẽ ngạc nhiên vì không ngờ rằng với một chút bụi đời thường, người ta lại có thể hun đúc được thành ngọc trai.”
3. Phân tích 2 khổ cuối của bài thơ Tràng Giang ấn tượng nhất:
Trong số các nhà thơ mới trước Cách mạng, Huy Cận là một trong những nhà thơ giàu sức tưởng tượng. Thơ ông luôn chất chứa một nỗi buồn nhân thế. “Tràng Giang” là bài thơ gắn liền tên tuổi Huy Cận với tình cảm yêu nước nồng nàn. Đặc biệt, nỗi nhớ ấy được thể hiện rõ hơn qua việc phân tích hai khổ thơ cuối bài thơ Tràng Giang dưới đây:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Trước mắt người đọc hiện lên một khung cảnh hắt hiu:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Từng đám bèo lặng lẽ theo nhau trôi theo dòng nước chẳng biết trôi về đâu, như dòng đời cô đơn, vô định, thấy bơ vơ, nhỏ bé. Ở đây có sự tương phản giữa có và không. Chỉ có dòng nước mênh mông với những cánh bèo mênh mông, không một cây cầu bấp bênh, không một con đò nhỏ. Hai bên bờ sông, giống như hai thế giới, không hề có chút liên hệ nào, cho dù ở gần, cũng trở nên không thể chạm tới. Hai bờ chạy song song, cạnh nhau “lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng”, không gần gũi, không hòa hợp chút nào. Cảnh thiên nhiên ấy, cũng như tâm trạng của nhà thơ. Giữa đất trời bao la mà không tìm được những tâm hồn đồng điệu với mình, không ai có thể hiểu được mình. Nỗi cô đơn cứ chồng chất khiến con người cảm thấy nhỏ bé hơn trước thiên nhiên và khao khát được cảm thông, yêu thương.
Không nhìn dòng nước buồn nữa, nhà thơ dẫn ta nhìn lên cao hơn:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Trong thơ Huy Cận cũng có chim và mây như trong một số bài thơ cổ về chiều nhưng hai hình ảnh này không có tác dụng hỗ tương cho nhau như trong thơ cổ mà còn có ý nghĩa. Trời đã xế chiều nhưng từng lớp từng lớp mây trên cao vẫn chồng chất, tạo thành những ngọn núi bạc, nổi bật trên nền trời trong xanh. Thật là một cảnh tượng hùng vĩ! Không phải là một đám mây lẻ loi giữa trời chiều như trong thơ Hồ Chí Minh. Mây ở đây chồng chất, óng ánh nắng chiều làm đẹp cả một vùng trời. Giữa khung cảnh đó, một chú chim nhỏ xuất hiện. Cánh chim bay giữa mây cao thật đẹp và hùng vĩ, như làm nổi bật sự nhỏ bé của nó. Nó cô đơn giữa bao la của đất trời, như tâm hồn thi sĩ lẻ loi giữa cõi đời này.
Việc đặt cánh chim và mây bạc đối lập nhau đã khắc sâu nỗi buồn trong lòng nhà thơ. Nỗi buồn dường như bao trùm và tràn ngập không khí:
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Tầm nhìn trở lại mặt nước. Từng con sóng nước bồng bềnh, uốn lượn nhẹ nhàng nhưng cũng trải dài, lan xa. Đó là hình ảnh gợi nhưng cũng là tâm trạng của tác giả – cảm giác cô đơn,
Người xưa nhìn khói sóng trên sông lúc hoàng hôn mà lòng nhớ nhà da diết. Còn Huy Cận không cần nhìn hoàng hôn mà trong lòng vẫn tràn ngập nỗi nhớ quê hương da diết. Nó như một thứ tình cảm thường trực luôn được lưu giữ trong lòng những người con xa quê, không chịu bất cứ tác động ngoại cảnh nào, vẫn mang trong mình nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ da diết.
Phân tích hai khổ thơ cuối của bài thơ Tràng Giang, ta thấy rõ hơn bức tranh quê hương đẹp và thơ mộng với những hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam như bãi sông, bèo, củi khô, mây trời. Đó chính là tình quê hương sâu nặng thấm đượm trong từng câu chữ. Đồng thời, nó cũng thể hiện khát khao tìm được sự đồng điệu trong thế giới rộng lớn của một tâm hồn nhà thơ luôn trăn trở một “nỗi sầu nhân thế”.