Trách nhiệm hình sự là một trong những chế định quan trọng của pháp luật hình sự Việt Nam, thể hiện tính nghiêm khắc nhất của đảng và nhà nước đối với người phạm tội. Dưới đây là bảng phân biệt trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự có thể tham khảo.
Mục lục bài viết
1. Phân biệt trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự:
Tiêu chí | Trách nhiệm hình sự | Trách nhiệm dân sự |
Chủ thể | Các chủ thể trong trách nhiệm hình sự là nhà nước đối với người phạm tội. | Các chủ thể trong trách nhiệm dân sự là bình đẳng trước pháp luật. |
Tính nguy hiểm cho xã hội | Tính nguy hiểm cho xã hội cao. | Tính nguy hiểm cho xã hội thấp. |
Căn cứ phát sinh trách nhiệm | Là việc thực hiện hành vi phạm tội mà pháp luật quy định của người phạm tội. | Là hành vi vi phạm của bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền. |
Căn cứ hình thành trách nhiệm | Dựa trên uy quyền, lập pháp của nhà nước đối với người phạm tội, nhằm bảo vệ lợi ích an toàn ngăn ngừa tội phạm cho xã hội. | Dựa trên thỏa thuận của các bên nhằm bảo vệ lợi ích cho bản thân của các bên. |
Hậu quả pháp lý | Hình phạt được quy định trong | Là tài sản, công việc phải làm. |
Trách nhiệm thực hiện | Phải do chính chủ thể vi phạm thực hiện. | Có thể chuyển giao nghĩa vụ. |
2. Trường hợp miễn trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự:
Miễn trách nhiệm hình sự | Miễn trách nhiệm dân sự |
Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự hiện nay đang được quy định cụ thể tại Điều 29 của Bộ luật hình sự năm 2015. Cụ thể như sau: – Người phạm tội theo quy định của pháp luật sẽ được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ cơ bản sau đây: + Trong quá trình tiến hành hoạt động điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của pháp luật, do có sự xuất hiện hoặc có sự thay đổi về chính sách pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội; + Khi có quyết định đại xá bởi chủ thể có thẩm quyền. – Người phạm tội có thể sẽ được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ cơ bản như sau: + Trong quá trình tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử do biến chuyển của tình hình, mà người phạm tội không còn có khả năng gây nguy hiểm cho xã hội; + Trong quá trình tiến hành hoạt động điều tra, truy tố hoặc xét xử, người phạm tội mắc các chứng bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội; + Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác trên thực tế, người phạm tội đã có hành vi tự thú, khai rõ và trình báo rõ ràng về sự việc, góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình phát hiện và điều tra tội phạm của các lực lượng chức năng, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, có hành vi lập công lớn tại cơ quan có thẩm quyền, có công hiến đặc biệt và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền và xã hội thừa nhận. – Người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội nghiêm trọng xuất phát từ lỗi vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm trọng, gây thiệt hại về tính mạng hoặc sức khỏe, danh dự và nhân phẩm, tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa và bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật, đã có hành vi khắc phục hậu quả trong phạm vi cần thiết, được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện bãi nại trên thực tế, những người đó đã có đơn đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, thì theo quy định của pháp luật, trong trường hợp này người phạm tội cũng có thể sẽ được miễn trách nhiệm hình sự. | Thứ nhất, thiệt hại xảy ra do một bên vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng. Căn cứ theo quy định tại Điều 363 của Thứ hai, thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng. Căn cứ theo quy định tại Điều 351 của Bộ luật dân sự năm 2015, bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì cũng sẽ không phải chịu trách nhiệm dân sự, ngoại trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật liên quan có quy định khác. Đồng thời, sự kiện bất khả kháng theo quy định của pháp luật là sự kiện xảy ra một cách khách quan nằm ngoài ý chí chủ quan của con người, sự kiện đó xảy ra không thể lường trước được và cũng không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng của mình như dịch bệnh, thiên tai … Điều 351 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ. Cụ thể như sau: – Bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ thì bên có nghĩa vụ sẽ phải có trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền; – Vi phạm nghĩa vụ theo quy định của pháp luật làm việc bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ phải thực hiện không đúng thời hạn, không đúng nội dung của nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận ban đầu; – Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ với lý do xuất phát từ các sự kiện bất khả kháng thì bên có nghĩa vụ sẽ không phải chịu trách nhiệm dân sự, ngoại trừ bên có nghĩa vụ và bên có quyền có tài sản khác hoặc pháp luật liên quan có quy định khác. Theo đó thì có thể nói, sẽ loại trừ trách nhiệm dân sự nếu thuộc một trong những trường hợp nêu trên. |
3. Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự và không phải chịu trách nhiệm hình sự:
Không phải chịu trách nhiệm hình sự và loại trừ trách nhiệm hình sự là hai khái niệm của luật hình sự và trong khoa học luật hình sự nước ta hiện nay còn nhiều quan điểm khác nhau về chúng. Tuy nhiên, xét dưới góc độ tổng thể, chúng đều có cùng bản chất pháp lý giống nhau và có thể được hiểu, không phải chịu trách nhiệm hình sự (hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự) là việc một người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng không đưa đến hậu quả pháp lý hình sự tùy theo từng trường hợp tương ứng cụ thể khi đáp ứng những điều kiện nhất định. Điều này có nghĩa là, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội ấy không phải chịu trách nhiệm hình sự (hoặc nói cách khác là “chủ thể không có trách nhiệm hình sự” đối với việc thực hiện hành vi) vì thuộc một trong ba căn cứ dưới đây mà chúng ta cần xem xét nội hàm của chúng để phân biệt với miễn trách nhiệm hình sự, cụ thể:
Thứ nhất, khi tinh nguy hiểm cho xã hội của hành vi được thực hiện chưa đến mức bị coi là vi phạm pháp luật bởi vì, nó chỉ có thể là hành vi trái đạo đức hoặc vi phạm kỷ luật, nên người thực hiện hành vi này không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, khi tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi được thực hiện là (đến mức là) vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức vi phạm pháp luật hình sự bởi vì hành vi đó không được quy định trong pháp luật hình sự nên tùy từng trường hợp cụ thể, người thực hiện hành vi này chỉ có thể bị xử lý bằng chế tài pháp lý của các ngành luật khác tương ứng như hành chính, dân sự … mà không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Thứ ba, khi tinh nguy hiểm cho xã hội của hành vi được thực hiện tuy về mặt hình thức có dấu hiệu của hành vi bị pháp luật hình sự cầm nhưng lại thiêu một trong năm dâu hiệu cơ bản được thừa nhận chung của tội phạm nên tính chất tội phạm của hành vi đó được loại trừ theo quy định của pháp luật hình sự, đồng thời tùy theo từng trường hợp cụ thể, người thực hiện hành vi đó chỉ có thể bị xử lý bằng chế tài pháp lý phi hình sự được quy định trong ngành luật tương ứng, mà không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong khi đó, hành vi do người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự thực hiện đã thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu pháp lý của một câu thành tội phạm tương ứng được pháp luật hình sự quy định, có nghĩa hành vi do người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự là tội phạm và người đó phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng trường hợp của họ do có căn cứ pháp lý và những điều kiện nhất định nên được miễn trách nhiệm hình sự.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015;
– Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017).