Phân biệt Tội giết người theo quy định tại Điều 123 với Tội giết con mới đẻ theo quy định tại Điều 124 và Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Bộ luật hình sự.
Mục lục bài viết
1. Phân biệt Tội giết người theo Điều 123 với Tội giết con mới đẻ theo Điều 124 Bộ luật hình sự:
Thứ nhất, về bố cục cả hai tội này đều được quy định trong chương XIV của BLHS năm 2015, thuộc nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người.
Thứ hai, về khách thể tội phạm: Tội giết người và tội giết con mới đẻ đều giống nhau ở khách thể bị xâm phạm là tính mạng con người.
Thứ ba: về mặt chủ quan: cả hai tội đều thực hiện một cách cố ý.
Tuy nhiên, giữa hai tội này có những đặc điểm khác nhau cơ bản đó là:
Thứ nhất, về nạn nhân: Nạn nhân của Tội giết người là bất kỳ người nào bị tước đoạt quyền sống không phân biệt … còn Tội giết con mới đẻ mà đối tượng bị xâm hại là trẻ mới được sinh ra đồng thời chính là con mình. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán TANDTC thì con mới đẻ là con mới sinh ra trong vòng bảy ngày trở lại.
Thứ hai, về chủ thể: Chủ thể của Tội giết người là bất kỳ người nào có năng lực TNHS và đủ 14 tuổi trở lên. Chủ thể của Tội giết con mới đẻ là người có năng lực TNHS và từ 16 tuổi trở lên và chính là người mẹ đã sinh ra nạn nhân. Như vậy những trường hợp “đẻ thuê”, “đẻ hộ” cho người khác mà giết con mới đẻ thì cũng có thể phạm tội này nếu thỏa mãn các dấu hiệu CTTP.
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp giết con khi vừa mới sinh ra bảy ngày tuổi đều phạm Tội giết con mới đẻ mà nguyên nhân thực hiện hành vi giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm, chỉ được coi là chủ thể của tội phạm này khi người mẹ thực hiện hành vi giết con mình là vì chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu như tin vào bói toán, thần thánh hoặc do hoàn cảnh khách quan đặc biệt như đứa trẻ sinh ra đứa con nhưng bị dị tật ẩm sinh, bị bệnh nan y mà việc chữa trị rất khó khăn, tốn kém.
Thứ ba: Về hành vi khách quan của tội này, điều luật quy định “Người mẹ nào do ảnh hưởng của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ đứa trẻ đó dẫn đến hậu quả đứa trẻ đó chết, thì bị phạt cải tạo giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ hai tháng đến ba năm”.
Như vậy, hành vi khách quan có thể được thực hiện bởi một trong hai hành vi là hành động phạm tội hoặc không hành động phạm tội. Đối với hành vi giết con mới đẻ đây là hành động giết con mới đẻ bằng cách tác động trực tiếp đến thân thể nhằm mục đích tước bỏ sự sống của con mình, các hành vi ở dạng này được phản ánh rất đa dạng như hàng động bóp cổ, thắt cổ, đâm, chém, cho uống thuốc độc…
Đối với hành vi vứt bỏ con mới đẻ, đây là dạng hành vi không tội phạm hành động phạm tội. Hành vi này thường thể hiện ở dạng không thực hiện nghĩa vụ phải nuôi dưỡng con mình như thủ đoạn không cho con bú, trẻ ốm mà không cho uống thuốc, bỏ con nơi công cộng … dẫn đến đứa trẻ chết.
Thứ tư, xét về mặt hậu quả: Hậu quả của hành vi giết con mới đẻ và hậu quả của hành vi giết người là giống nhau. Đó là hậu quả chết người có thể xảy ra hay không người thực hiện hành vi đều phải chịu TNHS về hành vi của mình. Tuy nhiên, ở hành vi vứt bỏ con mới đẻ dẫn đến hậu quả đứa trẻ đó chết thì đòi hỏi phải có hậu quả chết người xảy ra. Nếu đứa trẻ bị vứt bỏ không chết thì người mẹ không phải chịu TNHS về tội này.
2. Phân biệt Tội giết người tại Điều 123 với Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh tại Điều 125:
Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và Tội giết người có những đặc điểm giống nhau là:
Thứ nhất, về bố cục cả hai tội này đều được quy định tại chương XIV của BLHS năm 2015, thuộc nhóm tội xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người.
Thứ hai, về khách thể đều xâm phạm đến quyền sống của con người.
Thứ ba, về mặt chủ quan lỗi ở đây đều là lỗi cố ý, bao gồm cả lỗi gián tiếp và lỗi trực tiếp.
Thứ tư, về chủ thể: Cả hai tội là chủ thể thường, tức là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.
Tuy nhiên, giữa hai tội này có những đặc điểm khác nhau đó là:
Thứ nhất: Về trạng thái tinh thần: Ở Tội giết người thì ở trạng thái tinh thần của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc trong định tội danh. Ngược lại, đối với Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì trạng thái tinh thần của người phạm tội là dấu hiệu bắt buộc. Người phạm tội phải ở trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh khi thực hiện hành vi phạm tội.
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 04/HĐTP, ngày 29/11/1986 của Hội đồng Thẩm phán TNDTC thì: “Trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình. Sự kích động mạnh đó phải là tức thời do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây nên…” Khi xét trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hay không chúng ta cũng cần phải phân biệt giữa “kích động” với “kích động mạnh” để phân biệt được điều đó chúng ta phải xem xét một cách khách quan toàn diện các mặt như: Thời gian diễn ra ban ngày hay ban đêm, hoàn cảnh, địa điểm, diễn biến sâu xa dẫn đến tinh thần kích động; ngoài ra chúng ta cần xem xét mối quan hệ giữa nạn nhân với người phạm tội, trình độ văn hóa, chính trị, cá tính mỗi bên, mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật của nạn nhân, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân với trạng thái tinh thần kích động mạnh của người phạm tội.
Thứ hai: Nạn nhân của Tội giết người bất kì người nào, nếu người bị hại hoặc người khác là người có hành vi trái pháp luật thì chỉ được xem là tình tiết giảm nhẹ TNHS theo quy định tại điểm e, khoản 1, Điều 51 BLHS. Ngược lại, nạn nhân của Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh phải là người trực tiếp có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân có thể là hành vi cụ thể tức thì dẫn đến kích động mạnh về tinh thần, nhưng cũng có thể là do một chuỗi những hành vi trái pháp luật của nạn nhân có tính chất đè nén áp bức tương đối nặng nề, lặp đi lặp lại, sự kích động đó đã âm ỷ kéo dài, đến thời điểm nào đó hành vi trái pháp luật của nạn nhân lại tiếp diễn làm cho tinh thần người phạm tội bị dồn nén về mặt tâm lý. Nếu tách riêng sự kích động này thì không coi là kích động mạnh về tinh thần, nhưng nếu xét về cả quá trình phát triển của sự việc dẫn đến trạng thái tinh thần của người phạm tội bị đẩy đến cao độ không tự kiềm chế được bản thân dẫn đến người đó đã thực hiện hiện hành vi phạm tội thì lại được coi là trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Thứ ba: Về hậu quả của hành vi phạm tội: Hậu quả của hành vi giết người có nạn nhân chết hoặc không chết thì người phạm tội đều phải chịu TNHS về hành vi của mình, khi đủ chứng cứ chứng minh được nạn nhân không chết là nằm ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội. Trong khi đó đối với Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì hậu quả là nạn nhân phải chết, nếu hậu quả chết người không xảy ra thì người phạm tội không phải chịu TNHS về tội này mà phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo quy định tại Điều 135 BLHS.
Thứ tư: Về mục đích thực hiện hành vi của người phạm tội: Tội giết người, mục đích của người phạm tội là tước đoạt tính mạng của nạn nhân. Còn ở Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh người phạm tội bị hạn chế về mặt nhận thức do chính nạn nhân làm cho trạng thái của người phạm tội bị kích động mạnh, nên họ không nhận thức hết tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội về hành vi phạm tội của mình. Do đó, mục đích phạm tội của người phạm Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thường khó xác định hơn. Hầu hết người phạm tội này không có mục đích tước đoạt tính mạnh của nạn nhân mà chỉ thực hiện hành vi trong trạng thái không thể lường trước hết hậu quả. Do đó, hậu quả thực tế đến đâu thì người phạm tội phải chịu TNHS về tội tương ứng theo quy định của BLHS.
Thứ năm: Về độ tuổi chịu TNHS: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và khả năng nhận thức hành vi của người phạm tội nhà làm luật quy định độ tuổi chịu TNHS của Tội giết người là người từ đủ 14 tuổi trở lên. Còn độ tuổi chịu TNHS của Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là người từ đủ 16 tuổi trở lên.