Trên thực tế, việc giải quyết các vụ án hình sự gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác định các tội danh. Có những trường hợp hành vi thực hiện tưởng như giống nhau nhưng về bản chất cấu thành tội phạm lại khác nhau. Cụ thể là trường hợp giữa tội cố ý gây thương tích và tội giết người chưa đạt.
Mục lục bài viết
1. Quy định về tội cố ý gây thương tích:
Tội cố ý gây thương tích, gây tổn hại đến sức khỏe của người khác được quy định cụ thể tại Điều 134
* Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
– Người nào thực hiện cố ý gây thương tích cho người khác mà hậu quả để lại là tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người.
+ Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm.
+ Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ.
+ Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình.
+ Có tổ chức.
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn.
+ Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
+ Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê.
+ Có tính chất côn đồ.
+ Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
* Phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hậu quả là tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%.
– Phạm tội 02 lần trở lên.
– Tái phạm nguy hiểm.
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
* Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
– Gây thương tích cho người khác tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên.
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%.
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30% và thuộc một trong các trường hợp từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
* Phạt tù từ 07 năm đến 14 năm:
– Làm chết người.
– Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên.
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên và thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60% và thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
* Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
– Làm chết 02 người trở lên.
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên và thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
Ngoài ra, với hành vi cố ý gây thương tích tùy trong trường hợp còn có thể quy về các tội sau:
– Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135 Bộ luật Hình sự).
– Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136 Bộ luật Hình sự).
– Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 137 Bộ luật Hình sự).
2. Quy định về tội giết người chưa đạt:
Căn cứ theo quy định tại Điều 15
Do vậy, nếu một người cố thực hiện việc giết người nhưng không thực hiện được đến cùng vì nguyên nhân ngoài ý muốn thì bị xem là phạm tội chưa đạt về giết người. Nguyên nhân có thể hiểu như là:
– Nạn nhân hoặc người bị hại đã chống lại được hoặc đã tránh được.
– Do người khác đã ngăn chặn được.
– Có những trở ngại khác (như bắn súng nhưng đạn không nổ; thuốc độc không đủ liều lượng để giết người…).
Căn cứ tại Điều 123 Bộ luật Hình sự quy định về tội Giết người, thì hậu quả chết người là bắt buộc. Nếu hậu quả chết người không xảy ra vì nguyên nhân khách quan thì hành vi phạm tội được coi là tội giết người chưa đạt.
Phạm tội giết người chưa đạt phải đáp ứng những điều kiện:
– Người phạm tội đã bắt tay vào việc thực hiện hành vi tội phạm, thực hiện những hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội giết người quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự.
– Người phạm tội đã thực hiện hành vi giết người nhưng chưa xảy ra hậu quả chết người.
– Mong muốn của người phạm tội là thực hiện tội phạm đến cùng để xảy ra hậu quả chết người nhưng do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn nên nạn nhân chưa chết.
Theo đó, quy định tại Điều 57 Bộ luật Hình sự, đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật đó quy định. Như vậy, tội giết người chưa đạt áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu thuộc khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự thì mức phạt không quá 3/4 của 07 năm đến 15 năm tù.
3. Phân biệt tội giết người chưa đạt và tội cố ý gây thương tích:
3.1. Điểm giống nhau:
– Về mặt chủ thể: là bất kể ai có năng lực trách nhiệm hình sự.
– Về đối tượng tác động: là con người đang sống.
– Về khách thể xâm phạm: cả hai tội đều xâm phạm đến quyền sống cũng như quyền được bảo vệ tính mạng của con người.
3.2. Điểm khác nhau:
Tiêu chí | Tội cố ý gây thương tích | Tội giết người chưa đạt |
Mặt chủ quan | – Yếu tố lỗi: lỗi cố ý nhưng có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. | Lỗi cố ý trực tiếp. |
Hậu quả xảy ra | Đối tượng bị tác động là nạn nhân có thể có thương tích hoặc không có thương tích. | Hậu quả xảy ra là phải làm cho nạn nhân bị thương tật, thương tích. Cụ thể là thương tích từ 11% trở lên, hoặc nếu thương tích dưới 11% thì phải thuộc những trường hợp nhất định theo quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự. |
Mặt khách quan | – Hành vi thực hiện thể hiện thông qua việc người phạm tội sử dụng công cụ, phương tiện để đánh hoặc hành vi khác nhằm vào những vùng có khả năng mang sát thương cao (Thường là những vị trí trọng yếu trên cơ thế như vùng đầu, ngực, bụng,…), và người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình và mong muốn điều đó xảy ra. | Người phạm tội không mong muốn tước đoạt đi mạng sống của người khác mà chỉ là gây ra thương tích cho họ. Hành vi khách quan thể hiện qua các giai đoạn như chuẩn bị phạm tội (chuẩn bị công cụ, phương tiện để phục vụ hành vi phạm tội…) nhằm tấn công, gây thương tích hoặc tước đoạt tính mạng người khác. Có thiệt hại thực tế (người bị hại bị gây thương tích). |
Mục đích của hành vi phạm tội | Người phạm tội thực hiện hành vi nhằm mục đích tước đoạt tính mạng của nạn nhân. | Người phạm tội thực hiện hành vi chỉ nhằm mục đích gây tổn hại đến thân thể nạn nhân. |