Tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra vụ án hình sự đều là thủ tục trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Bài viết dưới đây sẽ phân biệt tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra vụ án hình sự.
Mục lục bài viết
1. Phân biệt tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra vụ án hình sự:
1.1. Giống nhau:
– Đều là thủ tục trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
– Đều hai là thủ tục pháp lý, dựa trên những điều kiện nhất định của luật, những cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ ra những quyết định tương ứng nhằm để làm kết thúc một giai đoạn hay cả một quá trình giải quyết vụ án hình sự.
– Cơ quan ra quyết định chính là cơ quan điều tra.
– Trường hợp vụ án có nhiều bị can mà lý do/căn cứ để tạm đình chỉ điều/đình chỉ điều không liên quan đến tất cả bị can thì có thể tạm đình chỉ điều tra/đình chỉ điều tra đối với từng bị can.
1.2. Khác nhau:
Tiêu chí | Tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự | Đình chỉ điều tra vụ án hình sự |
Khái niệm | Tạm đình chỉ chính là quyết định tạm ngừng mọi hoạt động trong điều tra vụ án hình sự | Đình chỉ chính là quyết định chấm dứt mọi hoạt động trong điều tra vụ án hình sự. |
Các trường hợp thực hiện | – Khi chưa xác định được bị can hoặc là không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn để điều tra vụ án. Trường hợp không biết rõ bị can đang ở đâu, khi đó Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã trước khi thực hiện tạm đình chỉ điều tra; – Khi có kết luận giám định tư pháp xác định rõ bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo thì sẽ có thể tạm đình chỉ điều tra trước khi hết thời hạn điều tra; – Khi trưng cầu giám định, yêu cầu việc định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp mà chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn điều tra. Trong trường hợp này thì việc giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp vẫn được tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả. – Khi không thể kết thúc điều tra vì lý những do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh nhưng đã hết thời hạn để điều tra. Trường hợp này Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Công an, với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và thủ trưởng các cơ quan khác mà có liên quan quy định chi tiết. | Có một trong những căn cứ sau: – Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố thực hiện rút yêu cầu, trừ trường hợp có căn cứ xác định rằng người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do họ bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố có rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn sẽ tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án. – Một trong các căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, gồm: + Không có về sự việc phạm tội; + Hành vi không cấu nên thành tội phạm; + Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; + Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc đã có quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; + Đã hết thời hiệu để truy cứu trách nhiệm hình sự; + Tội phạm mà đã được đại xá; + Người thực hiện những hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp là cần tái thẩm đối với người khác; + Tội phạm quy định tại khoản 1 của các điều là 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và Điều 156 của Bộ luật hình sự hiện hành mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không đưa yêu cầu khởi tố. – Tự ý nửa chừng chấm dứt về việc phạm tội. – Các trường hợp mà được miễn trách nhiệm hình sự. – Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự. |
Thủ tục sau khi ra quyết định | Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày đã ra quyết định tạm đình chỉ điều tra thì Cơ quan điều tra phải gửi quyết định này đến tới cho Viện kiểm sát cùng cấp, bị can, người bào chữa hoặc là những người đại diện của bị can; thông báo cho bị hại, đương sự và những người bảo vệ quyền lợi của họ. | Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày mà đã nhận được quyết định đình chỉ điều tra kèm theo là hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, nếu như mà thấy quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì khi đó Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để thực hiện giải quyết theo thẩm quyền; nếu mà thấy quyết định đình chỉ điều tra mà không có căn cứ thì hủy bỏ về quyết định đình chỉ điều tra và yêu cầu đến Cơ quan điều tra phục hồi điều tra; nếu như mà thấy đủ căn cứ để truy tố thì sẽ hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định về truy tố theo thời hạn, trình tự, thủ tục pháp luật quy định. |
Hậu quả pháp lý | Tạm thời chấm dứt hoạt động tố tụng cho đến khi đã có quyết định phục hồi. | Chấm dứt luôn hoạt động tố tụng. |
Các trường hợp phục hồi điều tra | – Khi có lý do để hủy bỏ về quyết định tạm đình chỉ điều tra thì khi đó Cơ quan điều tra ra quyết định phục hồi điều tra, nếu như chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. – Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày đã ra quyết định phục hồi điều tra, Cơ quan điều tra phải: + Gửi quyết định này đến cho Viện kiểm sát cùng cấp, đến bị can, người bào chữa hoặc những người đại diện của bị can; + Thông báo cho bị hại, đương sự và cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. | – Viện kiểm sát thấy quyết định đình chỉ điều tra mà không có căn cứ thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra. – Viện kiểm sát nếu mà thấy đủ căn cứ để truy tố thì sẽ hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định về truy tố theo thời hạn, trình tự pháp luật quy định. |
2. Quy định về phối hợp giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát khi tạm đình chỉ/đình chỉ điều tra:
– Đối với tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự:
+ Khi có căn cứ tạm đình chỉ điều tra, Điều tra viên và Kiểm sát viên phải phối hợp rà soát các chứng cứ, tài liệu bảo đảm việc tạm đình chỉ điều tra có căn cứ, đúng quy định ở tại Điều 229, Điều 443 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trước khi mà ra quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án, quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án đối với các bị can, quyết định tạm đình chỉ điều tra đối với bị can, Cơ quan điều tra sẽ phải xử lý các vấn đề liên quan (nếu có) theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
+ Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát phải mở sổ theo dõi và quản lý những vụ án, bị can tạm đình chỉ điều tra. Điều tra viên và Kiểm sát viên phải thường xuyên rà soát để thống nhất các vụ án, bị can tạm đình chỉ điều tra. Khi mà thấy lý do tạm đình chỉ điều tra không còn thì khi đó Cơ quan điều tra phải ra quyết định phục hồi điều tra vụ án, phục hồi điều tra bị can. Đối với trường hợp là đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc là do thay đổi quy định của pháp luật mà hành vi phạm tội không bị coi là tội phạm nữa, thì khi đó Cơ quan điều tra trao đổi với Viện kiểm sát trước khi mà ra quyết định đình chỉ điều tra theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
– Đối với đình chỉ điều tra vụ án hình sự:
+ Khi có căn cứ đình chỉ điều tra, Điều tra viên và Kiểm sát viên phải phối hợp rà soát các chứng cứ, tài liệu bảo đảm việc đình chỉ điều tra có căn cứ, đúng quy định ở tại Điều 230, Điều 443 Bộ luật Tố tụng hình sự; nếu như thấy đủ căn cứ thì Điều tra viên báo cáo Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra sẽ ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án, quyết định đình chỉ điều tra vụ án đối với các bị can, quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can; nếu như thấy không đủ căn cứ thì Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra.
+ Khi ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án, quyết định đình chỉ điều tra vụ án đối với các bị can, quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can, Cơ quan điều tra sẽ phải hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trả lại tài liệu, đồ vật đã tạm giữ (nếu như có), xử lý vật chứng, những vấn đề khác có liên quan và phải thực hiện việc thông báo, gửi cho Viện kiểm sát theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành; đối với biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế do chính Viện kiểm sát phê chuẩn, Cơ quan điều tra phải có văn bản thông báo để Viện kiểm sát quyết định việc hủy bỏ.
Những văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2021.