Phân biệt Luật Hành chính với Luật Hiến pháp. Điểm giống và khác nhau giữa Luật Hành chính với Luật Hiến pháp. Tiểu luận môn Luật hiến pháp đạt kết quả cao!
Quy phạm pháp luật hành chính và quy phạm pháp luật Hiến pháp mặc dù đều là những quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và đều điều chỉnh các quan hệ xã hội theo ý chí của Nhà nước nhưng vẫn có nhiều điểm khác nhau.
Tiêu chí phân biệt | Quy phạm pháp luật hành chính | Quy phạm pháp luật Hiến pháp |
Chủ thể ban hành | Chủ yếu là các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, ngoài ra còn có thể cả cơ quan lập pháp. | Chủ yếu do cơ quan quyền lực nhà nước ban hành |
Trình tự, thủ tục ban hành | Theo trình tự ban hành quy phạm pháp luật thông thường. | Chủ yếu Theo trình tự lập hiến – lập pháp. |
Hiệu lực | Có hiệu lực pháp lý khác nhau. Thường nằm trong các văn bản dưới luật. Và sẽ không có hiệu lực nếu trái với hiến pháp, văn bản cơ quan cấp trên. | Có hiệu lực pháp lý cao hơn. Chủ yếu nằm trong văn bản luật |
Đối tượng điều chỉnh | Những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý hành chính nhà nước theo phương pháp mệnh lênh đơn phương. | Những quan hệ xã hội cơ bản nhất trong nhiều lĩnh vực. |
Nội dung | Xác định thẩm quyền quản lý hành chính nhà nước. Quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính của đối tượng quản lý hành chính nhà nước. Quy định cơ cấu tổ chức, mối quan hệ công tác của các cơ quan, tổ chức cá nhân trong quá trình thực hiện quản lý hành chính nhà nước. Quy định thủ tục hành chính. Quy định vi phạm hành chính. Quy định các biện pháp khen thưởng và cưỡng chế hành chính. | Xác lập những nguyên tắc pháp lý mang tính quyền lực nhà nước, mang tính chung chung, không xác định quyền và nghĩa vụ cụ thể cho chủ thể quan hệ pháp luật hiến pháp |
Sự khác nhau cụ thể được thể hiện như sau:
Mục lục bài viết
1. Khác nhau về chủ thể ban hành
– Chủ thể ban hành quy phạm pháp luật hành chính chủ yếu là do các cơ quan hành chính nhà nước ban hành và người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước. Điều này được khẳng định trong các Điều 15, 16, 18, 19 của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi năm 2002 (phải nằm trong văn bản…2008), cụ thể như Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật hành chính thông qua hình thức nghị quyết, nghị định; Thủ tướng Chính phủ thông qua hình thức quyết định, chỉ thị; các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành thông qua quyết định, chỉ thị, thông tư; Ủy ban nhân dân ban hành thông qua quyết định, chỉ thị.
– Bên cạnh đó, theo quy định của pháp luật hiện hành thì các cơ quan hoặc người có thẩm quyền ban hành các quy phạm pháp luật hành chính còn có thể là cơ quan quyền lực nhà nước như
– Chủ thể ban hành quy phạm pháp luật hiến pháp chủ yếu là do Quốc hội ban hành thông qua hiến pháp, luật, nghị quyết. Ví dụ như Luật tổ chức Quốc hội, Nghị quyết về Nội quy kì họp Quốc hội… Bên cạnh đó các quy phạm pháp luật hiến pháp còn được ban hành bởi Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; một số văn bản do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và một số nghị quyết do Hội đồng nhân dân ban hành. Cụ thể như Pháp lệnh về nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (ngày 25/7/1996), Nghị quyết về ban hành quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan nhà nước (ngày 30/7/19980; Nghị định số 11/1998/NĐ-CP ngày 24/01/1998 về Quy chế làm việc của Chính phủ, các quyết định của Thủ tướng Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, và tổ chức bộ máy của các cơ quan thuộc Chính phủ; Nghị quyết thông qua nội quy kì họp của Hội đồng nhân dân…
Như vậy, nếu như chủ thể ban hành của quy phạm pháp luật hành chính chủ yếu là do các cơ quan hành chính nhà nước ban hành và người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước thì chủ thể ban hành quy phạm pháp luật hiến pháp chủ yếu là do Quốc hội.
2. Khác nhau về trình tự thủ tục ban hành
– Quy phạm pháp luật hành chính: được ban hành theo trình tự thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật thông thường được quy định cụ thể trong
- Lập chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hành chính.
- Soạn thảo văn bản.
- Lấy ý kiến đối với dự thảo.
- Thẩm định dự thảo.
- Chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo trình lên cơ quan chức năng có thẩm quyền.
- Xem xét, thông qua dự thảo.
- Công bố văn bản quy phạm pháp luật.
– Quy phạm pháp luật Hiến pháp: Do quy phạm pháp luật hiến pháp chủ yếu nằm trong hiến pháp nên được ban hành theo một trình tự thủ tục đặc biệt và không được quy định cụ thể
- Thủ tục lập hiến: Trên cơ sở nghị quyết của quốc hội, quốc hội lập ra ủy ban dự thảo hiến pháp hoặc ủy ban sửa đổi Hiến pháp trình bộ chính trị (BCH TW Đảng), lấy ý kiến nhân dân, ủy ban dự thảo chỉnh lý lại các ý kiến trưng cầu sau đó báo cáo lại quốc hội trong phiên họp chung , thảo luân các điều , chương. Thông qua tuân theo thủ tục phải được ít nhất 2/3 tổng số đại biểu biểu quyết tán thành.
Bên cạnh đó, còn có một số các QPPL do chính phủ, thủ tướng, Hội đồng nhân dân ban hành theo thủ tục lập pháp. Nhìn chung trình tự thủ tục ban hành của QPPLHC được quy định cụ thể hơn
3. Khác nhau về đối tượng điều chỉnh
Phạm vi điều chỉnh của quy phạm pháp luật Hiến pháp rộng hơn phạm vi điều chỉnh của quy phạm pháp luật Hành chính và quy phạm pháp luật Hành chính cụ thể hoá, chi tiết hoá quy phạm pháp luật Hiến pháp.
Quy phạm pháp luật Hiến pháp điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lí hành chính. Còn đối tượng điều chỉnh của quy phạm pháp luật hiến pháp là những quan hệ xã hội cơ bản và quan trọng nhất gắn liền với việc xác định chế độ chính trị, chế độ kinh tế, chính sách văn hóa-xã hội, quốc phòng- an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Như vậy quy phạm pháp luật hiến pháp có phạm vi đối tượng điều chỉnh rất rộng so với quy phạm pháp luật hành chính, nó liên quan đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối tượng điều chỉnh của quy phạm pháp luật hành chính chỉ là một trong những lĩnh vực cụ thể mà quy phạm pháp luật hiến pháp điều chỉnh.
Quy phạm pháp luật hành chính điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực quản lí hành chính nhà nước, những quan hệ chấp hành – điều hành theo phương pháp mệnh lệnh đơn phương.
Quy phạm pháp luật hành chính có nội dung chủ yếu là quy định địa vị pháp lý của các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước tức là xác định quyền và nghĩa vụ cũng như mối liên hệ chủ yếu giữa các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước; quy định cơ cấu, tổ chức, mối quan hệ công tác của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện quản lí hành chính Nhà nước; xác định những thủ tục, trình tự cần thiết cho việc thưc hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính và một số quan hệ pháp luật khác như quan hệ pháp luật lao động, tài chính, đất đai…; xác định các biện pháp khen thưởng và các biện pháp cưỡng chế hành chính đối với các đối tượng quản lý.
Luật sư
Các nhóm quan hệ xã hội mà quy phạm pháp luật hành chính điều chỉnh bao gồm:
– Các quan hệ quản lý phát sinh trong quá trình các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành – điều hành trên các lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội. Đây là nhóm quan hệ xã hội cơ bản mà gồm phần lớn các quy phạm pháp luật hành chính điều chỉnh
– Các quan hệ quản lí hình thành trong quá trình các cơ quan nhà nước xây dựng và củng cố chế độ công tác nội bộ của các cơ quan nhằm ổn định tổ chức để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình.
– Các quan hệ quản lí hình thành trong quá trình các cá nhân, tổ chức được nhà nước trao quyền thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước trong một số trường hợp cụ thể do pháp luật quy định.
Quy phạm pháp luật hiến pháp điều chỉnh những mỗi quan hệ cơ bản và quan trọng nhất, gắn liền với xác định chế độ kinh tế, chính tri, đời sống văn hoá – xã hội, quốc phòng và an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Ta có thể thấy phạm vi điều chỉnh của quy phạm pháp luật Hiến pháp rất rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và nhà nước trong đó có cả lĩnh vực quản lí hành chính nhà nước. Ví dụ: Hiến pháp quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước…
Ví dụ: Điều 41 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 quy định: “công dân của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nghĩa vụ đóng thuế theo quy định của pháp luật”. Theo quy định này chúng ta chỉ biết được một trong các nghĩa vụ cơ bản của công dân là phải đóng thuế còn cách thức đóng thuế, đối tượng nào cần phải đóng thuế, chủ thể có quyền thu thuế là ai thì phải được các văn bản luật và dưới luật cụ thể hoá trong đó có quy phạm pháp luật hành chính nhà nước.
Căn cứ quy định trên, chính phủ đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định về thuế thuế thu nhập cá nhân đó là nghị định của Chính phủ số 100/2008/NĐ-CP, 08/09/2008, gồm 13 điều quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và các quy định về đăng ký, khai thuế, quyết toán thuế thu nhập cá nhân theo quy định của Luật Quản lý thuế. Như tại điều 5 quy định đối tượng được giảm thuế gồm:
– Đối tượng nộp thuế gặp khó khăn do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn, bệnh hiểm nghèo ảnh hưởng đến khả năng nộp thuế thì được xét giảm thuế tương ứng với mức độ thiệt hại nhưng không vượt quá số thuế phải nộp.
– Bộ Tài chính quy định thủ tục, hồ sơ và việc xét giảm thuế thu nhập cá nhân quy định tại Điều này.
4. Khác nhau về cấu trúc quy định:
Phần lớn các quy phạm Luật Hiến pháp không có đủ cơ cấu ba thành phần (giả định, quy định và chế tài). Các quy phạm Luật Hiến pháp chủ yếu chỉ có phần quy định. Rất ít các quy phạm Luật Hiến pháp có cơ cấu ba thành phần như các quy phạm pháp luật khác. Ví dụ: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, vì nhân dân…” (Điều 2 Hiến pháp 1992) chỉ chứa phần quy định xác định bản chất của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Không chứa đựng phần giả định, và chế tài. Sở dĩ các quy phạm Luật Hiến pháp không có đầy đủ 3 bộ phận là vì đối tượng điều chỉnh đặc thù của luật hiến pháp- những quan hệ xã hội cơ bản, quan trọng.
Còn đối với QPPLHC thì có đầy đủ ba phần: giả định, quy định, chế tài. Ví dụ: Khoản 1, điều 12 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 quy định: “Đối với mỗi vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính sau đây:a) Cảnh cáo; b) Phạt tiền”. Ở ví dụ này, phần giả định là đoạn”đối với mỗi vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức”; Phần quy định là đoạn” vi phạm” ; còn phần chế tai là “ phải chiu…phạt tiền”.
Từ những phân tích trên có thể thấy, quy phạm pháp luật hành chính là phương tiện chủ yếu và là cơ sở của quản lý hành chính nhà nước. Thông qua việc ban hành các quy phạm pháp luật hành chính, Nhà nước không chỉ tác động đến ý thức của đối tượng quản lý nhằm đạt được những xử sự cần thiết mà còn xác định phạm vi thẩm quyền, cách thức quản lý của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước và xác định các trật tự quản lý hành chính nhà nước. Chính vì vậy, quy phạm pháp luật hành chính là một bộ phận không thể thiếu được trong luật hành chính. Nó điều chỉnh các quan hệ pháp luật hành chính, góp phần giúp cho những chủ thể mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau thực hiện đúng theo quy định của pháp luật hành chính.
Hy vọng rằng sự tư vấn của chúng tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu còn bất cứ thắc mắc gì liên quan đến sự việc bạn có thể liên hệ Tổng đài