Phân biệt chủng tộc được biết đến là đối xử phân biệt các loại người theo màu da, dòng dõi hay nguồn gốc dân tộc. Ở thời đại ngày nay, liệu còn những biểu hiện của chủ nghĩa phân biệt hay không, điều này có xảy ra ở Việt Nam. Bài viết dưới đây sẽ tìm hiểu về chống chủ nghĩa chủng tộc Việt Nam.
Mục lục bài viết
1. Phân biệt chủng tộc là gì?
Phân biệt chủng tộc thường được định nghĩa là một niềm tin hoặc giáo lý rằng sự khác biệt cổ hữu về sinh học giữa các chủng tộc khác nhau của loài người quyết định thành tựu phát triển cá nhân, với hệ quả rằng chủng tộc của mình siêu việt hơn và có quyền cai trị các chủng tộc khác.
Phân biệt chủng tộc đôi khi được dùng để chỉ quan niệm cho rằng dân tộc của chính mình là hơn hết (chủ nghĩa vị chủng – ethnocentrism), sự bài ngoại (xenophobia), các quan niệm hoặc xu hướng chống lại hôn nhân khác chủng tộc, và chủ nghĩa dân tộc cực đoan, bất kể niềm tin cụ thể nào về sự siêu việt hay tính chất thấp kém hơn được gắn trong trong các quan điểm hoặc sự thiên vị đó. Người ta đã từng sử dụng sự phân biệt chủng tộc để biện minh cho các phân biệt đối xử và bạo lực trong xã hội, trong đó có cả tội ác diệt chủng.
Dưới góc độ luật pháp, mặc dù nhiều quốc gia trên toàn cầu đã thông qua luật liên quan đến chủng tộc và phân biệt đối xử, công cụ nhân quyền quốc tế quan trọng đầu tiên do Liên Hợp Quốc (UN) phát triển là Tuyên ngôn Nhân quyền (UDHR), được Hoa Kỳ thông qua Đại hội đồng quốc gia năm 1948. UDHR nhận ra rằng nếu mọi người được đối xử với nhân phẩm, họ yêu cầu các quyền kinh tế, các quyền xã hội bao gồm giáo dục và các quyền tham gia văn hóa và chính trị và tự do dân sự. Nó cũng nói thêm rằng mọi người đều có quyền “không phân biệt bất kỳ loại nào, chẳng hạn như chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc quốc gia hoặc xã hội, tài sản, nơi sinh hoặc địa vị khác”. LHQ không định nghĩa “phân biệt chủng tộc”; tuy nhiên, nó định nghĩa “phân biệt chủng tộc”. Theo Công ước quốc tế của Liên hợp quốc năm 1969 về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc. Thuật ngữ “phân biệt chủng tộc” có nghĩa là bất kỳ sự phân biệt, loại trừ, hạn chế hoặc ưu tiên dựa trên chủng tộc, màu da, dòng dõi hoặc nguồn gốc quốc gia hoặc dân tộc có mục đích hoặc tác động của việc vô hiệu hóa hoặc làm giảm sự công nhận, hưởng thụ hoặc tập thể dục bước đi, về quyền con người và các quyền tự do cơ bản trong chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa hoặc bất kỳ lĩnh vực nào khác của đời sống công cộng. Trong Tuyên bố của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa (UNESCO) năm 1978 của Liên Hợp Quốc (Điều 1),
Liên Hợp Quốc tuyên bố: “Tất cả loài người thuộc về một loài duy nhất và có nguồn gốc từ một cổ phần chung. Họ được sinh ra bình đẳng về nhân phẩm và quyền lợi và tất cả tạo thành một phần không thể thiếu của nhân loại. ” Định nghĩa của Liên Hợp Quốc về phân biệt chủng tộc không tạo ra sự khác biệt giữa phân biệt đối xử dựa trên sắc tộc và chủng tộc, một phần vì sự khác biệt giữa hai bên là vấn đề tranh luận giữa các học giả, bao gồm cả các nhà nhân chủng học. Tương tự, theo luật của Anh, cụm từ nhóm chủng tộc có nghĩa là “bất kỳ nhóm người nào được xác định theo tham chiếu đến chủng tộc, màu da, quốc tịch (bao gồm cả quốc tịch) hoặc nguồn gốc dân tộc hoặc quốc gia”. Ở Na Uy, từ “chủng tộc” đã bị xóa khỏi luật pháp quốc gia liên quan đến phân biệt đối xử vì việc sử dụng cụm từ này được coi là có vấn đề và phi đạo đức. Đạo luật chống phân biệt đối xử của Na Uy cấm phân biệt đối xử dựa trên sắc tộc, nguồn gốc quốc gia, dòng dõi và màu da.
Phân biệt chủng tộc tiếng anh là “Racism”.
2. Chống chủ nghĩa chủng tộc Việt Nam:
a) Chủ nghĩa chủng tộc là gì?
Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc là một khái niệm tương đối hiện đại, phát sinh trong thời đại châu Âu của chủ nghĩa đế quốc, sự phát triển tiếp theo của chủ nghĩa tư bản và đặc biệt là buôn bán nô lệ Đại Tây Dương, trong đó nó là một động lực chính. Nó cũng là một lực lượng chính đằng sau sự phân biệt chủng tộc, đặc biệt là ở Hoa Kỳ trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX và Nam Phi dưới thời apartheid; Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở thế kỷ 19 và 20 trong văn hóa phương Tây đặc biệt được ghi chép lại và tạo thành điểm tham chiếu trong các nghiên cứu và diễn ngôn về phân biệt chủng tộc. Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc đã đóng một vai trò trong các cuộc diệt chủng như Holocaust, diệt chủng người Armenia và diệt chủng người Serb và các dự án thuộc địa bao gồm thực dân châu Âu của châu Mỹ, châu Phi và châu Á cũng như sự trục xuất người thiểu số bản địa. Người dân bản địa đã từng là người Haiti và là người thường xuyên phải tuân theo thái độ phân biệt chủng tộc.
b) Chống chủ nghĩa chủng tộc Việt Nam
Việt Nam lên án các biểu hiện phân biệt chủng tộc. Đại sứ Vũ Dũng, Trưởng phái đoàn đại diện Việt Nam bên cạnh Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và các tổ chức quốc tế khác tại Geneva, khẳng định Việt Nam lên án mọi hình thức của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, phân biệt đối xử vì lý do sắc tộc, bài ngoại, và các hành vi thiếu khoan dung có liên quan – bao gồm cả những lời nói và hành động. T.Tú, phóng viên Đái TNVN phản ánh.
Phát biểu ngày 22/4 tại Hội nghị của Liên hợp quốc về Chống phân biệt chủng tộc đang diễn ra ở Geneva, Thụy Sĩ, Đại sứ Vũ Dũng đã bày tỏ mối lo ngại sâu sắc về những chênh lệch, thách thức và trở ngại vẫn tồn tại, đặc biệt là những vụ vi phạm đáng lo ngại về phân biệt chủng tộc, tôn giáo, không khoan dung và bạo lực diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới. Việt Nam cũng rất lo ngại về những hành động xúi giục đang gia tăng đối với lòng thù hận dân tộc, chủng tộc và tôn giáo, những hình thức biểu hiện mới của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và những vi phạm nghiêm trọng các quyền con người và các luật lệ nhân đạo trong tình hình xung đột.
Đại sứ nhấn mạnh chủ trương chống phân biệt chủng tộc, đối xử đều được thể hiện rõ trong Hiến pháp, luật pháp và các chương trình phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam. Việt Nam đã tham gia Công ước quốc tế về chống mọi hình thức phân biệt chủng tộc dưới mọi hình thức, vì vậy đã thực hiện các biện pháp, luật pháp, tư pháp và hành chính để đảm bảo sự bình đẳng của người dân trên các mặt dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Phụ nữ, trẻ em, các dân tộc thiểu số, những người tàn tật, bệnh nhân HIV/AIDS… là những đối tượng được đặc biệt quan tâm. Là một nước có nhiều sắc tộc và nhiều tôn giáo, Việt Nam sản sàng chia sẻ và học tập kinh nghiệm của các nước về hòa hợp dân tộc và hài hòa trong sự khác nhau về văn hóa, tôn giáo.
Đại sứ Vũ Dũng nêu rõ Việt Nam bày tỏ quan ngại rằng những định kiến vì lý do tôn giáo và văn hóa, sự thiếu hiểu biết, thiếu khoan dung và và phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng đang làm phương hại đến việc thụ hưởng các quyền con người và tự do cơ bản cũng như cản trở sự thúc đẩy văn hóa hòa bình.
Việt Nam cho rằng sự khoan dung và hiểu biết trên cơ sở tôn trọng sự đa dạng về văn hóa và tôn giáo chính là cơ sở cho hòa bình và hòa hợp. Các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin của người dân phải được tôn trọng và bảo đảm bằng luật pháp. Tuy nhiên, việc thực hiện các quyền này phải đi cùng với sự tôn trọng nhân phẩm, giá trị đạo đức, truyền thống và văn hóa và không được gây hận thù giữa các dân tộc và các tôn giáo.
Hội nghị Chống phân biệt chủng tộc khai mạc ngày 20/4 và kéo dài đến ngày 24/4. Có hơn 40 nước đã cử đoàn cấp cao tham dự hội nghị. Sau đây là trích đoạn Tuyên bố chung Durban (Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về chống phân biệt chủng tộc) ngày 8/9/2001.
“… Về vấn đề Trung Đông, chúng tôi kêu gọi chấm dứt bạo lực và nhanh chóng phục hồi đàm phán hòa bình, kêu gọi tôn trọng nhân quyền, tôn trọng nguyên tắc tự quyết và chấm dứt tất cả những nỗi khổ đau của nhân dân đây.
Chúng tôi lo ngại về tình cảnh người Palestine dưới ách cai trị của ngoại bang. Chúng tôi công nhận quyền tự quyết và quyền thành lập một nhà nước độc lập của nhân dân Palestine. Và chúng tôi cũng công nhận quyền được bảo vệ, được an toàn của tất cả các nước trong khu vực, kể cả Israel. Xin các nước hãy ủng hộ tiến trình hòa bình Trung Đông và làm mọi cách để đẩy nhanh tiến trình này…”.
Với châu Phi…
“..Về chế độ nô lệ trong quá khứ và chủ nghĩa thực dân cũ, chúng tôi thừa nhận và bày tỏ sự ân hận sâu sắc về những nỗi thống khổ cùng tình cảnh bi thảm của hàng triệu đàn ông nhu nữ và trẻ em – nan nhân của chế độ nô lệ, buôn bán nô lệ, apartheid, chủ nghĩa thực dân và hành động diệt chủng. Chúng tôi công nhận rằng chế độ nô lệ cùng hoạt động buôn bán nô lệ là những tội ác chống lại con người. Và chúng tôi kêu gọi tất cả những ai chưa có đóng góp vào việc phục hồi danh dự và nhân phẩm cho các nạn nhân, hãy tìm những cách thích hợp để làm việc đó.
Xin nhấn mạnh: Khắc sâu ghi nhớ những tội ác hay sai lầm của quá khứ, lên án nạn phân biệt chủng tộc và nói lên sự thật về lịch sử là những việc làm rất quan trọng để hòa giải thế giới và xây dựng một xã hội dựa trên nền tảng công lý, bình đẳng và đoàn kết. Chúng tôi thừa nhận rằng chính chủ nghĩa thực dân đã gây ra nạn phân biệt chủng tộc, bài ngoại và tinh thần bảo thủ, thành kiến, không khoan dung. Người châu Phi, người gốc Phi đã là nạn nhân của chủ nghĩa thực dân và đến nay vẫn tiếp tục là nạn nhân của những hậu quả của nó…”.
… và những hình thức phân biệt đối xử khác
“Chúng tôi không chấp nhận sự phục hồi và tồn tại của chủ nghĩa phát xít mới, cũng như không chấp nhận ý thức hệ dân tộc chủ nghĩa mang tính bạo lực, dựa trên những thành kiến về chủng tộc hoặc sắc tộc.
Chúng tôi xin tuyên bố: Những hiện tượng này là không thể dung thứ được trong bất kỳ trường hợp nào. Chúng tôi thừa nhận và lo ngại sâu sắc về sự tồn tại của những thành kiến đối với các cộng đồng tôn giáo, đặc biệt là hành động hạn chế các quyền tự do tín ngưỡng của tín đồ.
Xin lưu ý rằng đối với phụ nữ và trẻ em gái, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và các hình thức phân biệt lại có những cách biểu hiện khác. Mọi quốc gia đều có nghĩa vụ bảo vệ và tăng cường nhân quyền cùng quyền tự do cơ bản của mỗi công dân, nhưng việc này phải được tiến hành trên cơ sở xét đến quan hệ giới, xét đến những hình thức phân biệt đối xử khác nhau nhằm vào phụ nữ và trẻ em gái”.
Đây là báo cáo của Ủy ban dân tộc (Việt Nam), em có thể tham khảo như cách mà Việt Nam áp dụng để chống phân biệt, đối xử chủng tộc.
Mấy suy nghĩ về chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi chia rẽ dân tộc
“Chúng tôi không chấp nhận sự phục hồi và tồn tại của chủ nghĩa phát xít mới, cũng như không chấp nhận ý thức hệ dân tộc chủ nghĩa mang tính bạo lực, dựa trên những thành kiến về chủng tộc hoặc sắc tộc.
Chúng tôi xin tuyên bố: Những hiện tượng này là không thể dung thứ được trong bất kỳ trường hợp nào. Chúng tôi thừa nhận và lo ngại sâu sắc về sự tồn tại của những thành kiến đối với các cộng đồng tôn giáo, đặc biệt là hành động hạn chế các quyền tự do tín ngưỡng của tín đồ.
Xin lưu ý rằng đối với phụ nữ và trẻ em gái, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và các hình thức phân biệt lại có những cách biểu hiện khác. Mọi quốc gia đều có nghĩa vụ bảo vệ và tăng cường nhân quyền cùng quyền tự do cơ bản của mỗi công dân, nhưng việc này phải được tiến hành trên cơ sở xét đến quan hệ giới, xét đến những hình thức phân biệt đối xử khác nhau nhằm vào phụ nữ và trẻ em gái”.
Đây là báo cáo của Ủy ban dân tộc (Việt Nam), em có thể tham khảo như cách mà Việt Nam áp dụng để chống phân biệt, đối xử chủng tộc.
Mấy suy nghĩ về chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi chia rẽ dân tộc tộc” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2006, trang 122). Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc, theo tôi việc đầu tiên là chúng ta phải nhận biết đúng những biểu hiện của nó trong thực tế?
Kỳ thị dân tộc là nhìn dân tộc này hay dân tộc khác với con mắt miệt thị. Chỉ thấy dân tộc mình, coi dân tộc mình là nhất, không xem trọng dân tộc khác, không quan tâm tới lợi ích chính đáng của dân tộc khác, xem thường tác dụng của dân tộc khác đối với cả nước; thiếu tôn trọng hoặc đối xử không bình đẳng với các dân tộc có trình độ phát triển thấp hơn.
Ai có tư tưởng kỳ thị dân tộc dễ mắc bệnh kiểu ngạo, không thấy những tiến bộ của các dân tộc, không dân chủ hoặc dân chủ hình thức, hay hấp tấp nóng vội, bao biện làm thay, vi phạm quyền bình đẳng dân tộc, làm tổn thương đến tình đoàn kết dân tộc.
Tư tưởng dân tộc hẹp hòi là khép kín, biệt lập, bảo thủ, bài ngoại, ngờ vực dân tộc khác,… Những người có tư tưởng này hay nhấn mạnh đặc điểm riêng biệt của dân tộc, không thấy rõ lợi ích của cả nước và tương lai của dân tộc mình; không muốn tiếp thu sự giúp đỡ và những kinh nghiệm hay những tinh hoa văn hoá của các dân tộc khác.
Những ai có tư tưởng kỳ thị và hẹp hòi đó sẽ dẫn tới chia rẽ dân tộc; họ tỏ thái độ mặc cảm dân tộc, gây nghi ngờ, thiếu tin cậy nhau, lôi bè kéo cánh, làm và mất đoàn kết, thù ghét giữa các dân tộc,… là nguy cơ dẫn đến xung đột dân tộc.
Điều cần đặc biệt lưu ý từ thực tiễn của một số nước trên thế giới là, vấn đề dân tộc ngày nay, khi bị các thế lực chính trị đen tối lợi dụng thì thường dẫn đến dân tộc cực đoan và ly khai. Tư tưởng dân tộc cực đoan là tuyệt đối hóa tính biệt lập, đặc thù của một dân tộc, đề cao dân tộc mình, phủ nhận hoặc xem thường với thái độ miệt thị các dân tộc khác, chỉ thấy quyền lợi của dân tộc mình, chà đạp lên quyền lợi của dân tộc khác, nuôi dưỡng ngày càng sâu mối hận thù với các dân tộc khác,…
Để đạt mục đích, những người có tư tưởng dân tộc cực đoan, được các thể lực thù địch tạo điều kiện thì họ không từ bỏ mọi phương tiện và thủ đoạn nào, sẽ tạo ra cuộc đấu tranh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Lúc đầu họ sẽ đòi phục hồi quyền lợi của cha ông, đòi các quyền lợi về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội; rồi cao hơn là gây bạo loạn, lật đổ, đòi dân tộc tự trị; cuối cùng là đòi ly khai lập quốc gia riêng.
Có nhận biết đúng những tư tưởng đó thì mới chống được. Nhưng việc nhận biết đó không dễ, nên chúng ta phải đứng trên quan điểm lập trường của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh, để xem xét và nhận biết đúng tư tưởng đó trong thực tiền, từ thái độ và lời nói đến hành động cụ thể. Không tùy tiện “chụp mũ; không xem những sai lầm, khuyết điểm cá biệt, nhất thời trong công tác và tác phong của một số người thành những khuynh hướng tư tưởng có hệ thống.
3. Nguyên nhân tư tưởng chủ nghĩa chủng tộc Việt Nam:
Nguyên nhân có những tư tưởng đó là gì? Đó là những người trong cán bộ và dân tộc ta còn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa dân tộc, phân biệt chủng tộc… của chế độ chủ nô, phong kiến, thực dân-đế quốc. Hơn nữa việc giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, về đại đoàn kết, chính sách dân tộc, chính sách mặt trận của Đảng và Nhà nước ta chưa sâu sắc, chưa toàn diện, thiếu thống nhất nên chưa đủ sức xóa bỏ được tàn dư của quá khứ để lại. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch tìm mọi cách dung dưỡng chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa dân tộc, kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, dùng nó để nội công ngoại kích trong chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá ta, gây mất ổn định chính trị xã hội. Trong khi đó chúng ta còn có không ít người thiếu rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao cảnh giác cách mạng, còn thụ động và thiếu sắc bén trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” của địch.
Chống tư tưởng kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách trong cuộc đấu tranh tư tưởng của Đảng ta. Vì đó là những tư tưởng tiêu cực chỉ có tác động tiêu cực. Nó xa lạ với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trái với truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, cản trở việc thực hiện các nguyên tắc chính sách dân tộc, chính sách mặt trận của Đảng và Nhà nước ta là bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng tiến bộ,…
Đại hội X của Đảng nhấn mạnh phải chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc,… Nghị quyết đã chỉ ra, vấn đề là phải chủ động nắm chắc, phân tích, dự báo những diễn biến cụ thể, ở từng địa bàn và ở từng đối tượng, do nguyên nhân chủ quan và khách quan nào, để đề ra giải pháp tích cực và sát hợp, có phương án xử lý kịp thời.
Mọi người đều phải tự giác đấu tranh với những tư tưởng tiêu cực đó, trước hết là với bản thân và gia đình mình, phải chiến thắng loại “giặc ở trong lòng mình” như Bác Hồ đã dạy. Không thể như ai đó cho rằng, động đến dân tộc và chống những biểu hiện sai trái trong tư tưởng đối với vấn đề dân tộc là phức tạp, là quốc tế sẽ lên án và can thiệp, rồi né tránh hoặc “bó tay”. Đúng là vấn đề này rất nhạy cảm, nên phải làm sao không hữu và không tả, để đạt hiệu quả trong cuộc đấu tranh tư tưởng này
Từ ngày có Đảng và Bác Hồ lãnh đạo, Đảng và Bác Hồ đã thường xuyên chỉ bảo chúng ta và đồng bào các dân tộc phải chống những tư tưởng tiêu cực đó. Trong quan hệ giữa các dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc, chính sách mặt trận của Đảng và Nhà nước ta, chúng ta đã có nhiều cố gắng và tiến bộ, nhưng đi sâu vào thực tiễn cuộc sống và tâm trạng của đồng bào các dân tộc, có lúc, có nơi, có việc còn nhiều yếu kém, khuyết điểm, chưa đáp ứng được lợi ích chính đáng của từng dân tộc và hài hòa giữa các dân tộc, nền vẫn còn tiềm ẩn những yếu tố bất hòa…
4. Giải pháp chống chủ nghia chủng tộc Việt Nam:
Về cách làm, đi đôi với chống phải lấy xây là chính. Chúng ta cần tập trung vào những việc chủ yếu:
+ Phải thường xuyên tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, về đại đoàn kết toàn dân tộc, chính sách dân tộc, chính sách mặt trận của Đảng và Nhà nước ta đến mọi người để hiểu cho rõ và làm cho đúng; không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng, đủ sức đánh bại chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và những tư tưởng tiêu cực, làm thất bại âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Bác Hồ nói: “Nước ta là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc”; phải giáo dục sâu rộng ý thức dân tộc và ý thức quốc gia. Trong giáo dục phải đặt lợi ích quốc gia – dân tộc Việt Nam lên trên lợi ích của từng dân tộc; làm cho lợi ích đó không đối lập nhau, trái lại bổ sung cho nhau, nương tựa vào nhau để cùng phát triển trong mỗi một công dân của dân tộc Việt Nam. Và phải xây được tư tưởng Hồ Chí Minh trong lòng đồng bào các dân tộc, để đồng bào các dân tộc “sống, chiến đấu, lao động, học tập” theo gương Bác Hồ vĩ đại. Phải thường xuyên giáo dục và phát huy truyền thống cách mạng của đồng bào các dân tộc. Chú trọng tuyên truyền công lao to lớn của Đảng và Bác Hồ, của cách mạng đem lại cho đồng bào các dân tộc; đồng thời nêu bật được tinh thần tự lực tự cường, sự đóng góp quý báu của đồng bào các dân tộc cho Đảng và cách mạng. Củng cố niềm tin theo Đảng và Bác Hồ trong đồng bào các dân tộc; không để kẻ địch xúi giục, lôi kéo đồng bào các dân tộc chống lại Đảng và Nhà nước ta.
+ Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa đồng bào và cán bộ dân tộc đa số với đồng bào và cán bộ các dân tộc thiếu số. Đó là việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, khi nào có được mối quan hệ đó thì mới chống được tư tưởng kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Các dân tộc thiếu số và dân tộc đa số “đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau. Ngày nay nước Việt Nam là nước chung của chúng ta… Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta. Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta. Sông thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt”… (Thư gửi Đại hội các dân tộc thiếu số họp tại Play-cu ngày 19/4/1946). Và, “Các dân tộc anh em chúng ta muốn tiến bộ, muốn phát triển văn hóa của mình thì chúng ta phải tẩy trừ những thành kiến giữa các dân tộc, phải đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ nhau như anh em một nhà” (Thư gửi học sinh Trường Sư phạm miền núi Trung ương ngày 19/3/1955).
Ngày nay, các dân tộc thiểu số và dân tộc đa số của ta phải hiểu biết nhau sâu sắc hơn, chỉ có hiểu được “cái tâm” của nhau thì trong lòng họ mới kính trọng nhau, mới tăng được đồng thuận, xóa được định kiến giữa dân tộc đa số và dân tộc thiểu số, mới sống chết có nhau,… mới cùng nhau đoàn kết xây được mối quan hệ tốt đẹp như Bác Hồ dạy. Việc làm đó cũng là nhằm giải quyết tốt vấn đề dân tộc, xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc trong Đại gia đình Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Các dân tộc phải biết nâng cao khả năng cách mạng, phát huy những mặt tích cực, người tốt và việc tốt; khắc phục cho được những mặt tiêu cực và yếu kém của mình. Nâng cao được quyết tâm và thành tâm của dân tộc đa số giúp đỡ các dân tộc thiểu số để cùng nhau phát triển. Làm cho các dân tộc thiểu số mở rộng hiểu biết, cùng với dân tộc đa số phấn đấu vươn lên vì lợi ích của Đảng và dân tộc trong thời kỳ mới của cách mạng. Các dân tộc thiểu số cũng cần phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa dân tộc, phân biệt chủng tộc, tẩy trừ những thành kiến giữa các dân tộc cùng tư tưởng dân tộc cực đoan, cục bộ hẹp hòi hay địa phương chủ nghĩa.
Đoàn kết, đại đoàn kết, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc không thể chi là một khẩu hiệu. Không thể đoàn kết bằng lời nói mà là đoàn kết bằng việc làm, đoàn kết từ tình cảm, đoàn kết bằng cơ chế và chính sách. Bác Hồ dạy: “Mỗi người cần đoàn kết thực sự và giúp nhau cùng tiến bộ. Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân” (Bài nói tại Hội nghị Uỷ ban Trung ương MTTQVN ngày 19/3/1958).
Nếu như trong nội bộ một số dân tộc, giữa các dân tộc, ai còn có những bất hòa, thiếu đoàn kết nhất trí,… thì cấp trên có trách nhiệm phải tìm rõ sự việc và nguyên nhân, giải quyết những bất hòa cho “thấu tình, đạt lý”, hãy vì mục tiêu bình đẳng và đoàn kết, khuyên nhau chia sẻ, xóa bỏ bất hòa, hướng tới tương lai. Ai đã qua giáo dục nhiều lần mà cố tình chống phá, phạm pháp, gây hậu quả nghiêm trọng thì xử lý nghiêm minh theo pháp luật.
+ Tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng cơ sở chính trị và đào tạo cán bộ các dân tộc, kết hợp hài hòa sự phát triển từng dân tộc với sự phát triển chung của quốc gia đa dân tộc, sớm thu hẹp khoảng cách chênh lệch về các mặt giữa các dân tộc, giữ vững an ninh, quốc phòng ở vùng dân tộc. Vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải làm cho “các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ như Bác Hồ đã nói: Giải quyết vấn đề dân tộc, thực chất và cốt lõi là vấn đề lợi ích. Ngày nay, sự khác nhau về lợi ích rất đa dạng và phức tạp. Trong khả năng cho phép, chúng ta phải giải quyết hài hòa lợi ích chính đáng của các dân tộc, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích từng dân tộc và lợi ích quốc gia. Đó chính là tạo niềm tin của đồng bào các dân tộc với Đảng và Bác Hồ, với Nhà nước và chế độ ta, là thực hiện bình đẳng và đoàn kết thực sự giữa các dân tộc.
Có Đảng lãnh đạo, học và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì nhất định chúng ta loạI trừ được những tư tưởng tiêu cực và những yếu tố gây bất hòa tiềm ẩn giữa các dân tộc nhất định thực hiện được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.