Luật Tố tụng Dân sự là gì? Tìm hiểu quy định về Bộ luật tố tụng dân sự? Phạm vi điều chỉnh và nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng dân sự?
Pháp luật Tố tụng dân sự được bắt gặp ở hầu hết các vụ việc giải quyết tranh chấp dân sự. Tuy nhiên, dù có được nhắc đến rất nhiều và rất phổ biến những để hiểu hết về phạm vi điều chỉnh và nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng dân sự này thì chắc hẳn một điều rằng không phải ai cũng biết hết được. Cũng chính vì lý do đó mà trong bài viết dưới đây, Luật Dương Gia cung cấp các thông tin để trả lời những câu hỏi như: Luật Tố tụng Dân sự là gì? Phạm vi điều chỉnh và nhiệm vụ của Luật Tố tụng Dân sự như thế nào? như sau:
Cơ sở pháp lý:–
1. Luật Tố tụng Dân sự là gì?
Dựa trên cơ sở của khoa học pháp lý có nhắc đến quy định về tố tụng dân sự được nhận biết là trình tự, thủ tục do pháp luật quy định giải quyết vụ việc dân sự, vụ án dân sự và thi hành án dân sự đã được Tòa án ra bản án, quyết định.
Có thể nhận biết dưới góc độ pháp lý thì Luật Tố tụng Dân sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật, bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự để bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự nhanh chóng, đúng đắn bảo về quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của nhà nước.
2. Tìm hiểu quy định về Bộ luật tố tụng dân sự
Dể tìm hiểu và biết thêm về sự ra đời của Bộ luật tố tụng dân sự hay nói cách khác là tại sao lại có sự ra đời của Bộ luật tố tụng dân sự này nay. Trong thời kỳ mới dựng nước và giữ nước thì Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy định về thủ tục để giải quyết những tranh chấp phát sinh khi chưa có sự ra đời của Bộ luật tố tụng dân sự, như:
– Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (năm 1989);
– Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài (năm 1993);
– Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế (năm 1994);
– Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài (năm 1995)
-Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động (năm 1996).
Tư những pháp lệnh này đã góp phần quan trọng trong việc tạo ra trình tự, thủ tục chặt chẽ để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong nội bộ nhân dân, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Mặc dù những pháp lệnh này có những mặt thực hiện được những mặt tích cực nêu trên, song song với mặt tích cực trong quá trình thực hiện, nhất là trước sự phát triển toàn diện của đất nước thì các pháp lệnh này cũng bộc lộ nhiều hạn chế trong quá trình sử dụng về nội dung của các pháp lệnh chưa đầy đủ, mới chỉ quy định về một số nguyên tắc cơ bản. bên cạnh đó thì xã hội ngày càng phát triển đẫn đên nhiều quy định không còn phù hợp nữa, thậm chí còn mâu thuẫn với pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp và có nhiều nội dung quan trọng chưa được quy định.
Chính vì những vướng mắc mà các pháp lệnh kia chưa thực sự đáp ứng được viết quy phạm pháp luật trong xã hội mới nên không còn tính phù hợp. Bởi lẽ đó đã được thay thế bằng Bộ luật tố tụng dân sự được xây dựng nhằm pháp điển hóa các quy định của pháp luật hiện hành, bổ sung những thiếu sót về nguyên tắc và cơ chế giải quyết trong tố tụng dân sự, kinh tế, lao động, khắc phục sự tắn mạn, trùng lặp, thiếu đồng bộ trong các quy định của pháp luật; đồng thời, thể chế hoá quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng.
Những nội dung được nêu ở trên được thể hiện một cách đầy đủ trong Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02.01.2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”; cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết 51/2001/2H10 ngày 25.12.2001) về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế và khu vực. Do đó, sau một thời gian dài chuẩn bị công phu, dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự đã được hoàn thiện và trình Quốc hội Khóa XI cho ý kiến tại kì họp thứ tư (tháng 11.2003).
Có thể thấy rằng và khẳng định rằng sự ra đời của Bộ luật này là bộ luật lớn, quan trọng, thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp; các quy định trong Bộ luật có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống thường nhật của mọi người dân, nên Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã tổ chức lấy ý kiến của nhân dân, các ngành, các cấp để tập trung trí tuệ của đông đảo nhân dân trong việc xây dựng bộ luật. Ngày 15.6.2004, Bộ luật tố tụng dân sự đã được Quốc hội Khóa XI thông qua tại kì họp thứ năm, gồm 9 phần với 36 chương và 418 điểu, quy định về những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự, trình tự, thủ tục khởi kiện yêu cầu giải quyết các vụ án dân sự, các việc dân sự (bao gồm các vụ, việc về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động); trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc tại Tòa án; thi hành án dân sự; quy định về người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cũng như quyền và nghĩa vụ của những người này; về thủ tục giải quyết một số loại việc dân sự có tính chất đặc thù; việc xử lí đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng và khiếu nại, tố cáo; thủ tục giải quyết các vụ việc có yếu tố nước ngoài và tương trợ tư pháp trong tố tụng dân sự.
3. Phạm vi điều chỉnh và nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng dân sự
3.1. Phạm vi điều chỉnh Bộ luật Tố tụng Dân sự
Trên cơ sở quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì ngày tại Điều 1 của Bộ luật này đã có quy định về phạm vi điều chỉnh và nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng dân sự này như sau: Tại Điều 1 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
“Bộ luật tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án nhân dân (sau đây gọi là Tòa án) giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự); trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ việc dân sự) tại Tòa án; thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài; thi hành án dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, của cá nhân, của cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp (sau đây gọi chung là cơ quan, tổ chức) có liên quan nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật.
Bộ luật tố tụng dân sự góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.”
Với quy định về phạm vi điều chỉnh, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án nhân dân giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Đó chính các quan điểm, tư tưởng có tính chất là nền tảng, chỉ đạo định hướng và xuyên suốt quá trình tố tụng dân sự, pháp luật tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng nó.
3.2. Nhiệm vụ của Bộ luật Tố tụng Dân sự
Bên cạnh đó, cũng theo quy định này thì luật tố tụng dân sự Việt Nam có nhiệm vụ cơ bản sau đây:
Thứ nhất, trong Bộ luật này sẽ thực hiện nhiệm vụ thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về cải cách hành chính, cải cách tư pháp. Để không ngừng nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ việc dân sự, đáp ứng được những yêu cầu mới của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong giai đoạn hiện nay luật tố tụng dân sự Việt Nam phải thể chế hóa được quan điểm, đường lối của Đảng trong:
– Nghị quyết của Bộ chính trị số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020;
– Kết luận của Bộ chính trị số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 về việc tiếp tục thực hiện
Mặt khác, trong pháp luật luật tố tụng dân sự Việt Nam cũng phải thể chế hóa được quan điểm, đường lọi của Đảng trong các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
Thứ hai, quy định quy trình tố tụng dân sự thật sự khoa học làm cho các hoạt động giải quyết vụ việc dân sự, thi hành án dân sự và tham gia tố tụng dân sự của các chủ thể tố tụng có nhiều thuận lợi. Từ đó, có thể thấy rằng bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân sự và thi hành án dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh, đúng pháp luật và bảo đảm được quyền bảo vệ cùa đương sự trong tố tụng dân sự.
Thứ ba, bảo đảm cho tòa án xử lý được nghiêm minh các hành vi trái pháp luật; bảo đảm việc thi hành được các bản án, quyết định dân sự của toà án. Trên cơ sở đó, ngăn chặn và khắc phục kịp thời hậu quả của các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ được lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức đồng thời giáo dục được mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
Ngoài các nhiệm vụ cơ bản trên, luật tố tụng dân sự Việt Nam còn có nhiệm vụ bào đảm phát huy dân chủ tròng tổ tụng dân sự; tạo điều kiện cho mọi người đóng góp được nhiều sức lực và trí tuệ vào các công việc của Nhà nước và xã hội. Trong đó, có cả việc giải quyết các vụ việc dân sự và thi hành án dân sự.