Phạm tội nhiều lần là một tình tiết thuộc chế định đa tội phạm Trong Bộ luật Hình sự nó được coi là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Thực tiễn xét xử, các vụ án hình sự đối tượng phạm tội nhiều lần chiếm tỉ lệ rất lớn. Bài viết dưới đây sẽ giải thích phạm tội nhiều lần là gì và phân biệt với các tình tiết khác thuộc chế định đa tội phạm.
Mục lục bài viết
1. Phạm tội nhiều lần là gì?
Về mặt lý luận, dưới góc độ khoa học luật hình sự các nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm này như sau: Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ hai lần trở lên mà những tội ấy được quy định tại cùng một điều (hoặc tại cùng một khoản của điều) tương ứng trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, đồng thời với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và người phạm tội vẫn chưa bị xét xử.
Đối với những trường hợp phạm từ hai tội trở lên mà những tội ấy được quy định tại các điều khác nhau của Bộ luật này, chỉ khi nào do các điều tương ứng trong phần các tội phạm Bộ luật này quy định riêng mới bị coi hoặc có thể bị coi là phạm tội nhiều lần.
Hay có thể được hiểu là: Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ hai lần trở lên như hai lần trộm cắp, hai lần lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ba lần chứa mại dâm, bốn lần tham ô… và mỗi lần thực hiện hành vi đã cầu thành một tội phạm độc lập nhưng tất cả các tội phạm đó đều bị xét xử trong cùng một bản án… Phạm tội nhiều lần là người phạm tội có nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội, nhưng hành vi đó chi cấu thành một tội, xâm phạm đến cùng một khách thể trực tiếp và chưa đưa ra truy tố, xét xử…
Qua khái niệm trên, chúng ta có thể thấy tình tiết phạm tội nhiều lần bao gồm năm nội dung sau:
– Phạm tội nhiều lần là người phạm tội đã thực hiện từ hai hành vi phạm tội trở lên, tác động đến cùng một đối tượng hoặc nhiều đối tượng khác nhau (vi dụ: phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối đối với nhiều người, nhiều lần trộm cắp, nhiều lần hiếp dâm…).
– Nếu tách ra từng hành vi phạm tội riêng lẻ thì mỗi hành vi ấy đã đủ các yêu tố cấu thành một tội phạm độc lập.
– Tất cả các hành vi phạm tội đó đều được quy định tại một điều luật cụ thể trong phần riêng Bộ luật Hình sự (cùng là tội trộm cắp, hiếp dâm…), có thể cùng một khoản, có thể phạm tội ở các khoản khác nhau của cùng một điều luật.
– Các hành vi phạm tội đó chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật (như đình chi điều tra, đình chi vụ án…) và cùng bị đưa ra xét xử một lần trong cùng một vụ án (được tuyên trong một bản án).
– Nếu điều luật có quy định về giá trị tài sản hoặc thiệt hại về tài sản thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng giá trị tài sản của các lần phạm tội cộng lại.
2. Đặc điểm của tình tiết phạm tội nhiều lần:
Từ khái niệm nêu trên, tình tiết phạm tội nhiều lần có những đặc trưng như sau:
Đặc điểm thứ nhất: Người phạm tội thực hiện từ hai lần hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Có thể hiểu hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi đe dọa xâm phạm hoặc xâm phạm đến những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ.
Đặc điểm thứ hai: Hành vi nguy hiểm cho xã hội trong mỗi lần thực hiện bao giờ cũng phải có đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập. Các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm bao gồm bốn yếu tố: khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan. Đây là một đặc điểm quan trọng để xác định có phải người phạm tội đã thực hiện từ hai lần hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cầm hay không. Nếu hành vi không có đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập thì không thể xác định được đó là tình tiết phạm tội nhiều lần.
Đặc điểm thứ ba: Tội phạm do một điều hoặc một khoản của điều tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật Hình sự quy định. Đây là một đặc điểm đặc trung của tình tiết phạm tội nhiều lần và dùng để phân biệt với tình tiết phạm nhiều tội. Người phạm tội thực hiện từ hai lần hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, mỗi lần thực hiện hành vi có đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập và tội phạm đó do cùng một điều hoặc cùng một khoản tương ứng quy định trong Bộ luật hình sự.
Đặc điểm thứ tư: Tội phạm này vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và người phạm tội phải bị đưa ra xét xử cùng một lần. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 27
Như vậy, đây là bốn đặc điểm cần và đủ để có thể đánh giá thế nào là phạm tội nhiều lần. Nếu thiếu một trong bốn đặc điểm hay còn gọi là dấu hiệu nói trên thì khó có thể coi đó là tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần.
Phạm tội nhiều lần tiếng anh là “Committing many crimes”.
3. Phân biệt với các tình tiết khác thuộc chế định đa tội phạm:
3.1. Phạm tội nhiều lần và phạm nhiều tội:
Như vậy, có thể thấy việc hiểu về tình tiết phạm tội nhiều lần khá phức tạp. Mặt khác để hiểu đúng về tình tiết phạm tội nhiều lần chúng ta cần phải phân biệt nó với các tình tiết khác thuộc chế định đa tội phạm: phạm nhiều tội, tội liên tục, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Đây là những tình tiết có nhiều dấu hiệu giống nhau, nếu không phân biệt được sẽ dẫn đến việc hiểu sai và áp dụng sai.
Cũng như tình tiết phạm tội nhiều lần, tinh tiết phạm nhiều tội chưa nhận được sự điều chỉnh chính thức bằng một quy phạm riêng biệt nào trong pháp luật hình sự Việt Nam. Thuật ngữ “phạm nhiều tội” chỉ được đề cập đến trong tên gọi của một điều luật “Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội”.
Vì vậy, để phân biệt hai tinh tiết này chúng ta có thể dựa vào các khái niệm, các đặc điểm của nó dưới góc độ khoa học luật hình sự.
Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ hai lần trở lên mà những tội ấy được quy định tại cùng một điều (hoặc tại cùng một khoản của điều tương ứng trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, đồng thời đối với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và người phạm tội vẫn chưa bị xét xử.
Phạm nhiều tội là phạm tội từ hai lần trở lên hoặc khi hành vi của người phạm tội có dấu hiệu của từ hai tội trở lên mà những tội ấy được quy định tại các điều khác nhau (hoặc tại các khoản khác nhau của cùng một điều nếu các đối tượng của tội phạm khác nhau) trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, đồng thời với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và người phạm tội chưa bị xét xử về tội nào trong số những tội ấy.
Từ hai khái niệm nói trên, có thể thấy đặc điểm duy nhất để phân biệt hai tình tiết này là: số lần phạm tội từ hai lần trở lên nhưng ở tình tiết phạm tội nhiều lần thì những tội ấy được quy định tại cùng một điều (hoặc một khoản của điều) tương ứng trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, còn ở tình tiết phạm nhiều tội thì những tội ấy được quy định tại các điều khác nhau (hoặc tại các khoản khác nhau của cùng một điều nếu các đối tượng của tội phạm khác nhau) trong Phần riêng của Bộ luật Hình sự.
3.2. Phạm tội nhiều lần và tội liên tục:
Hai tình tiết phạm tội nhiều lần và tội liên tục nếu xét về thuật ngữ “nhiều lần” và thuật ngữ “liên tục” ta thấy chúng dường như là tương đồng nhưng thực ra về bản chất là rất khác nhau. Có thể hiểu tội liên tục là khi tội phạm được hình thành từ một loạt hành vi nguy hiểm cho xã hội giống nhau, mà các hành vi đó có cùng một mục đích chung, được thực hiện với một ý định phạm tội thống nhất, cùng xâm hại đến một khách thể và trong sự tổng hợp của những hành vi đó thì cấu thành một tội độc lập.
Như vậy, tội liên tục cũng là tội được hình thành từ nhiều hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, nhưng khác với phạm tội nhiều lần một loạt hành vi nguy hiểm của tội liên tục mới cấu thành nên một tội vì mỗi hành vi chưa đủ các dấu hiệu của một cầu thành tội phạm độc lập, còn với tình tiết phạm tội nhiều lần thì hành vi nguy hiểm cho xã hội trong mỗi lần thực hiện bao giờ cũng có đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập. Mặt khác, xét về hậu quả cũng như thiệt hại cho xã hội do hành vi gây ra thì phạm tội nhiều lần gây ra thiệt hai lớn hơn rất nhiều so với tội liên tục. Về mức độ trách nhiệm hình sự, phạm tội nhiều lần là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự còn phạm tội liên tục chi để chỉ tội đó do một loạt hành vi cấu thành nên nó chỉ là tinh tiết định tội mà thôi.
3.3. Phạm tội nhiều lần và phạm tội có tính chất chuyên nghiệp:
Dưới góc độ khoa học luật hình sự, phạm tội có tính nghiệp được hiểu là phạm tội nhiều lần, có tính chất liên tục và nhằm mục đích vụ lợi hay làm giàu bất chính mà hoạt động phạm tội đã trở thành hệ thống và tạo nên nguồn thu nhập cơ bản hoặc nguồn sống chủ yếu của người phạm tội.
– Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
+ Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích;
+ Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.
– Khi áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”, cần phân biệt:
+ Đối với trường hợp phạm tội từ năm lần trở lên mà trong đó có lần phạm tội đã bị kết án, chưa được xóa án tích thì tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị áp dụng cả ba tình tiết là “phạm toi nhiều lần”, “tái phạm” (hoặc “tái phạm nguy hiểm”) và “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”.
+ Đối với tội phạm mà trong điều luật có quy định tinh tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” là tình tiết định khung hình phạt thì không được áp dụng tình tiết đó là tình tiết tăng nặng tương ứng quy định Điều 52 Bộ luật Hình sự. Trường hợp điều luật không có quy định tình tiết này là tình tiết định khung hình phạt thì phải áp dụng là tình tiết tăng nặng tương ứng quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Như vậy, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp thể hiện tính nguy hiểm và mang cấp độ cao hơn so với tình tiết phạm tội nhiều lần. Phạm tội nhiều lần chi để chi người phạm tội thực hiện từ hai lần hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Còn đối với phạm tội có tính chất chuyên nghiệp thì các hành vi phạm tội có tính chất liên tục nghĩa là người phạm tội liên tiếp thực hiện loại tội phạm cùng nhóm trong khoảng thời gian nhất định và ít nhất phải từ năm lần trở lên. Các hành vi phạm tội đã trở thành hoạt động phạm tội có hệ thống và tạo nên nguồn thu nhập cơ bản hoặc nguồn sống chủ yếu của người phạm tội.
Mặt khác, nếu ở tình tiết phạm tội nhiều lần các lần người tội phạm thực hiện hành vi phạm tội chưa bị đưa ra xét xử lần nào thì ở tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp người phạm tội có thể bị đưa ra xét xử ở các lần khác nhau. Bởi vì có thể ngay sau khi được x án tích người phạm tội lại tiếp tục thực hiện một loạt tội phạm cùng nhóm.
Điểm khác nhau cuối cùng là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự còn ở phạm tội nhiều lần thì các lần phạm tội phải chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
3.4. Phạm tội nhiều lần và tái phạm, tái phạm nguy hiểm:
So với tình tiết phạm tội nhiều lần, tái phạm được quy định bằng một chế định độc lập tại Điều 53
– Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
– Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
Cũng giống như tình tiết phạm tội nhiều lần, tái phạm cũng là thực hiện từ hai lần trở lên hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Nhưng tái phạm, tái phạm nguy hiểm là trường hợp người phạm tội đã bị kết án và chưa được xóa án tích còn phạm tội nhiều lần thì người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần nhưng chưa lần nào bị đưa ra xét xử nên chưa bị kết án và chưa có án tích.
Ở tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm tội phạm trước và tội phạm mới không cần thiết phải cùng là một tội được quy định trong cùng một điều luật còn ở tỉnh tiết phạm tội nhiều lần thi bắt buộc tắt cả các hành vi phạm tội đó đều được quy định tại một điều luật cụ thể trong phần riêng Bộ luật Hình sự.
Theo quy định của Bộ luật Hình sự tinh tiết tái phạm và tái phạm nguy hiểm có những dấu hiệu đặc trưng đó là dấu hiệu về hình thức lỗi và tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội còn tinh tiết phạm tội nhiều lần không đặt ra dấu hiệu này.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
– Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;