Phạm tội mới khi chưa được xóa án tích là hành vi có ý nghĩa pháp lý đặc biệt nghiêm trọng, thể hiện người phạm tội chưa thực sự cải tạo, tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Vậy trong trường hợp này, người phạm tội sẽ bị xử lý như thế nào theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015? Phần dưới đây sẽ phân tích cụ thể các căn cứ pháp lý và hậu quả pháp lý phát sinh đối với hành vi này.
Mục lục bài viết
1. Phạm tội mới khi chưa được xoá án tích bị xử lý thế nào?
Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, có 03 trường hợp được xóa án tích bao gồm:
- Đương nhiên xóa án tích;
- Xóa án tích theo quyết định của Tòa án;
- Và xóa án tích trong trường hợp đặc biệt.
Trong đó, trường hợp Đương nhiên được xóa án tích quy định tại Điều 70 Bộ luật Hình sự 2015 quy định như sau:
- Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
- Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
+ 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;
+ 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;
+ 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;
+ 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại các điểm a, b và c khoản này thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.
- Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự 2015.
- Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 70 Bộ luật Hình sự 2015.
Trong trường hợp cá nhân bị kết án hình sự thì cần chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong một thời gian nhất định (nêu trên) kể từ khi chấp hành xong hình phạt chính để được xóa án tích.
Tuy nhiên, trong thời gian chưa xóa án tích mà tiếp tục phạm tội mới thì sẽ bị xem là TÁI PHẠM HOẶC TÁI PHẠM NGUY HIỂM. Cụ thể, Điều 53 Bộ luật Hình sự 2015 quy định:
(1) Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
(2) Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
- Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
- Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
Đồng thời, theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015, việc tái phạm hay tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng và là căn cứ quan trọng để Tòa án quyết định mức hình phạt cho người có hành vi phạm tội.
Ngoài ra, trường hợp chưa được xóa án tích mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn để xóa án tích cũ được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành (Điều 73 Bộ luật Hình sự 2015).
2. Phạm tội khi chưa được xóa án tích có được coi là yếu tố định tội, định khung hình phạt không?
Tình tiết định tội là tình tiết nêu lên những dấu hiệu cơ bản để xác định một tội phạm cụ thể, đồng thời phân biệt tội phạm đó với tội phạm khác. Để xác định được tình tiết định tội thì sẽ căn cứ trên cơ sở là dấu hiệu định tội – là những dấu hiệu được quy định trong cấu thành tội phạm cơ bản của một tội.
Còn tình tiết định khung là những tình tiết phản án mức độ nguy hiểm cho xã hội, sẽ xác định trường hợp phạm tội đó sẽ thuộc khung hình phạt tăng nặng hoặc khung hình phạt giảm nhẹ.
Theo đó, lấy một số ví dụ cụ thể trong Bộ luật hình sự Việt Nam, cụ thể như tội đánh bạc quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự 2015 như sau:
“Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật Hình sự 2015 hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật Hình sự 2015 chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”
Hoặc tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự 2015 quy định:
“Người nào có hành vi chiếm đoạt tài sản với giá trị từ 4 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 4 triệu đồng nhưng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc trước đó đã bị kết án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hoặc các tội cướp tài sản (Điều 168); tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169); tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170); tội cướp giật tài sản (Điều 171); tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172); tội trộm cắp tài sản (Điều 173); tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174); tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản mà chưa được xóa án tích; hoặc tài sản chiếm đoạt là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ: phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”
Hành vi chiếm đoạt được thể hiện như sau:
- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác, nhận được tài sản thông qua hợp đồng, sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp và kéo theo là không có khả năng trả lại tài sản đó.
- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác, nhận được tài sản thông qua hợp đồng và sau đó chiếm đoạt tài sản đó bằng thủ đoạn gian dối; hoặc trường hợp đến thời hạn trả lại tài sản nhưng cố tính không trả mặc dù vẫn có điều kiện để trả.
Như vậy: Chưa xóa án tích cũng có thể được xem là tình tiết định tội, định khung hình phạt tăng nặng (tình tiết định khung hình phạt tái phạm nguy hiểm…) trong một số tội danh đặc biệt, như Tội đánh bạc Điều 321, Tội trộm cắp tài sản Điều 173, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Điều 174, Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015…
3. Cách tính thời gian xóa án tích cũ trong trường hợp chưa được xóa án tích mà tiếp tục phạm tội mới:
Căn cứ Điều 73 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về cách tính thời hạn xóa án tích như sau:
- Thời hạn để xóa án tích quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật Hình sự 2015 căn cứ vào hình phạt chính đã tuyên;
- Người bị kết án chưa được xóa án tích mà thực hiện hành vi phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn để xóa án tích cũ được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành;
- Người bị kết án trong trường hợp phạm nhiều tội mà có tội thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích, có tội thuộc trường hợp xóa án tích theo quyết định của Tòa án thì căn cứ vào thời hạn quy định tại Điều 71 của Bộ luật Hình sự 2015 Tòa án quyết định việc xóa án tích đối với người đó;
- Người được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại cũng được coi như đã chấp hành xong hình phạt.
Theo đó, thời gian để được xóa án tích được tính căn cứ vào hình phạt chính mà Tòa án đã tuyên trong bản án hình sự.
Trường hợp người bị kết án chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật, thì thời hạn xóa án tích của bản án trước sẽ được tính lại.
Cụ thể, thời hạn này được tính từ ngày người đó chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo của bản án mới, hoặc kể từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành, tùy từng trường hợp cụ thể.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


