Án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Vậy những điều kiện để người phạm tội đánh bạc được hưởng án treo là gì?
Mục lục bài viết
1. Phạm tội đánh bạc có được xin hưởng án treo hay không?
1.1. Quy định của Bộ luật Hình sự về án treo:
Án treo là một biện pháp thay thế cho hình phạt tù có thời hạn khi người phạm tội đáp ứng đủ những điều kiện nhất định và tòa án xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội mà vẫn có thể cải tạo được.Tòa án có thể miễn chấp hành án phạt tù tại trại giam mà có thể cải tạo dưới sự giám sát quản lý giáo dục tại địa phương cư trú, chính quyền nơi người phạm tội cư trú hoặc làm việc ổn định.
Như vậy, thay vì hình phạt tù thì người được hưởng án treo sẽ chịu sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú trong thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách này, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án Hình sự từ 2 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù theo bản án phạt tù đã cho hưởng án treo.Trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội mới thì tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định của pháp luật.
1.2. Quy định về hình phạt tội đánh bạc theo Bộ luật Hình sự:
Theo quy định tại Điều 321 quy định về người phạm tội đánh bạc sẽ chịu hình phạt như sau:
– Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với người có hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kể hình thức nào nhằm mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
+ Sử dụng tiền hoặc hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng để đánh bạc;
+ Sử dụng tiền hoặc hiện vật trị giá dưới 5.000.000 đồng để đánh bạc nhưng trước đó đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi gá bạc, tổ chức đánh bạc;
+ Sử dụng tiền hoặc hiện vật trị giá dưới 5.000.000 đồng nhưng người phạm tội đã từng bị kết án về một trong các tội: tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc, gá bạc nhưng chưa được xóa án tích mà tiếp tục vi phạm.
– Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm nếu người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Có tính chất chuyên nghiệp nghĩa là thực hiện hành vi đánh bạc từ 05 lần trở lên không kể đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi này hay chưa;
+ Sử dụng tiền hoặc hiện vật nhằm mục đích đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;
+ Sử dụng phương tiện điện tử, mạng internet, mạng viễn thông, mạng máy tính để thực hiện tội phạm;
+ Tái phạm nguy hiểm.
Lưu ý: Người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng tùy tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội và điều kiện, hoàn cảnh của người phạm tội.
1.3. Điều kiện để được hưởng án treo khi phạm tội đánh bạc:
Căn cứ Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP Nghị quyết Hội đồng thẩm phán
Thứ nhất, bị xử phạt tù không quá 03 năm;
Thứ hai, có nhân thân tốt. Một người được coi là có nhân thân tốt nếu như ngoài lần phạm tội đánh bạc này, người phạm tội luôn chấp hành đúng các chính sách, pháp luật của nhà nước và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc.
Thứ ba, có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên và trong đó có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Nếu có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 2 tình tiết trở lên và trong đó ít nhất một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Thứ tư, có nơi cư trú ổn định rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có thể thực hiện việc giám sát, giáo dục. Nơi cứ trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định một cách cụ thể theo quy định của Luật Cư trú năm 2020 mà người được hưởng án treo về đó để cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo; Nơi làm việc ổn định là nơi mà người phạm tội làm việc có thời gian từ 01 năm trở lên theo
Thứ năm, xét thấy người phạm tội đánh bạc không cần thiết phải chấp hành hình phạt tù nếu như họ có khả năng tự cải tạo và việc cho họ được hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự và an toàn xã hội.
Như vậy, từ những quy định nêu trên có thể thấy trong trường hợp người phạm tội đánh bạc bị phạt tù dưới 03 năm đồng thời đáp ứng đủ các điều kiện để được hưởng án treo bao gồm: có nhân thân tốt; có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trở lên mà trong đó ít nhất có 01 tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, không có tình tiết tang nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự hoặc nếu có tình tiết tăng nặng thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 2 tình tiết trở lên và trong đó ít nhất một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; có nơi cư trú hoặc làm việc ổn định; và Tòa án xem xét thấy người phạm tội có thể tự cai tạo và việc được hưởng án treo của họ không gây nguy hiểm cho xã hội và ảnh hưởng đến an toàn trật tự, an ninh xã hội thì người phạm tội đánh bạc có thể được hưởng án treo.
2. Các đặc điểm của án treo:
Án treo là một trong những biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Đồng nghĩa với việc là người được hưởng án treo là người phạm tội phải chịu hình phạt tù có thời hạn nhưng được miễn việc chấp hành hình phạt tù tại trại giam và phải đáp ứng đủ các điều kiện theo luật quy định. Đó là về hình phạt nhân thân người phạm tội, có từ 2 tình tiết giảm nhẹ trở lên, có nơi cư trú, làm việc ổn định đồng thời, người phạm tội có cả năng cải tạo, không gây nguy hiểm cho xã hội.
Án treo là một trong những biện pháp giáo dục trong trường hợp không cần cách ly người phạm tội ra khỏi cộng đồng khi bị xử phạt tù có thời hạn tương đối nhẹ (dưới 03 năm). Án treo chỉ được áp dụng khi có đầy đủ những căn cứ và những điều kiện do pháp luật quy định. Đồng thời, nó cũng thể hiện được nguyên tắc nhân đạo và phương châm xử lý rong chính sách hình sự của nước ta đó là nghiêm trị kết hợp với khoan hồng trừng trị kết hợp với giáo dục và thuyết phục.
Những người được hưởng án treo phải đáp ứng được vấn đề về việc tự cải tạo đặt dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong một thời gian thử thách nhất định do tòa án đã ấn định trong bản án.
Thời gian thử thách là một khoảng thời gian nhất định do Tòa án ấn định để kiểm tra, đánh giá việc tự cải tạo của người phạm tội. Theo quy định của Bộ luật Hình sự thì thời gian thử thách đối với người phạm tội không dưới 1 năm và không quá 5 năm. Thời gian này được tòa án xác định dựa trên cơ sở là mức hình phạt mà người phạm tội phải gánh chịu. Nếu người phạm tội không phạm tội mới trong thời gian thử thách và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình thì không phải chấp hành hình phạt đã tuyên. Tuy nhiên, ngược lại, đối với những người đã được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách thì tòa án sẽ quyết định buộc chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định của luật.
Ta cần xác định rằng án treo không phải là một loại hình phạt. Bởi theo quy định của pháp luật hiện hành thì hệ thống hình phạt không có loại hình phạt nào là “hình phạt án treo”. Án treo cũng không phải là hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù. Thực chất án treo là biện pháp không tước đi tự do, kết hợp đầy đủ các nguyên tắc trừng trị kết hợp khoan hồng, không cách ly ra khỏi xã hội nhưng vẫn đạt được mục đích cải tạo và giáo dục người phạm tội.
Các văn bản pháp luật sử dụng trong bài viết
Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP Nghị quyết Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự