Mức hình phạt dành cho tội dâm ô với người dưới 16 tuổi được chia thành các khung khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi, có thể bị xử phạt từ 6 tháng đến 12 năm tù giam.
Mục lục bài viết
- 1 1. Quy định về hình phạt đối với tội dâm ô người dưới 16 tuổi:
- 2 2. Các căn cứ khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi:
- 3 3. Những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với tội phạm dâm ô với người dưới 16 tuổi:
- 4 4. Những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với tội dâm ô người dưới 16 tuổi:
1. Quy định về hình phạt đối với tội dâm ô người dưới 16 tuổi:
Điều 146 BLHS quy định 3 khung hình phạt đối với tội dâm ô người dưới 16 tuổi như sau:
* Khung cơ bản quy định hình phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm, trong trường hợp phạm tội thỏa mãn các dấu hiệu định tội trong khoản 1.
* Khung hình phạt tăng nặng TNHS đối với tội dâm ô người dưới 16 tuổi tại khoản 2 quy định phạt tù từ 03 năm đến 07 năm, nếu có một trong những tình tiết sau:
– Phạm tội có tổ chức. Đây là hình thức đồng phạm có sự tham gia có tổ chức, tức là trường hợp những người đồng phạm về tội dâm ô người dưới 16 tuổi có sự cấu kết chặt chẽ với nhau thực hiện tội phạm.
– Phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi 02 lần trở lên. Đây là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội từ 02 lần trở lên nhưng chưa bị truy cứu TNHS và chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS.
– Phạm tội đối với 02 người trở lên;
– Phạm tội đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
– Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
-Tái phạm nguy hiểm. Đây là trường hợp người phạm tội đã tái phạm chưa được xóa án tịch lại phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi theo khoản 1 hoặc khoản 2 điều 146.
* Khung hình phạt tăng nặng TNHS đối với tội dâm ô người dưới 16 tuổi tại khoản 3 quy định phạt tù từ 07 năm đến 12 năm, nếu có một trong những tình tiết sau:
– Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
– Làm nạn nhân tự sát. Điểm b khoản 3 đòi hỏi hậu quả của hành vi phạm tội là dẫn đến nạn nhân tự sát, không đòi hỏi nạn nhân tự sát phải chết.
Ngoài hình phạt chính, khoản 4 Điều 146 BLHS quy định hình phạt bổ sung có thể áp dụng đối với người phạm tội là cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
2. Các căn cứ khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi:
Việc quy định các căn cứ quyết định hình phạt đối với người phạm tội trong BLHS có ý nghĩa quan trọng, nó là cơ sở pháp lý để dựa vào đó Tòa án có thể quyết định hình phạt đúng, khắc phục, hạn chế tình trạng tùy tiện, thiếu thống nhất trong quyết định hình phạt. Nếu không dựa vào các căn cứ do luật quy định khi quyết định hình phạt, hình phạt áp dụng sẽ không đặt được mục đích, không bảo đảm cho bản án có tính hợp pháp, có căn cứ pháp lý.
Vì vậy, khi quyết định loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể, Tòa án cần phải xem xét, cân nhắc đánh giá các căn cứ quyết định hình phạt một cách đầy đủ, toàn diện và biện chứng. Giữa các căn cứ quyết định hình phạt nêu trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau và luôn thể hiện trong một thể thống nhất. Tòa án cần phải nắm chắc nội dung, ý nghĩa pháp lý của từng căn cứ có tính nguyên tắc đó, cũng như mối liên hệ giữa chúng khi quyết định hình phạt.
Điều 50 BLHS năm 2015 quy định những căn cứ chung để Tòa án dựa vào đó khi quyết định hình phạt đối với người phạm các tội nói chung, trong đó có tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, đó là:
– Các quy định của BLHS;
– Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;
– Nhân thân người phạm tội;
– Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS.
2.1. Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 :
Đối với người phạm tội, khi quyết định hình phạt Tòa án phải căn cứ vào các quy định của BLHS. Đây là đòi hỏi quan trọng của nguyên tắc pháp chế XHCN khi quyết định hình phạt.
Khi quyết định hình phạt Tòa án trước hết phải căn cứ vào các quy định của BLHS, tức là phải căn cứ vào các quy định của Phần chung và Phần các tội phạm của BLHS.
* Căn cứ vào các quy định của Phần chung của Bộ luật hình sự, đó là:1) Những quy định có tính nguyên tắc chung cho việc quyết định hình phạt như: Cơ sở của TNHS (Điều 2), nguyên tắc xử lý (Điều 3), hiệu lực về thời gian của BLHS (Điều 7), chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt (các Điều 14, 15, 57), đồng phạm (các Điều 17, 58), các quy định về quyết định hình phạt trong chương VIII (từ Điều 50 đến Điều 59);…ii) Những quy định có tính nguyên tắc chung cho từng loại hình phạt trong chương VI (từ Điều 30 đến Điều 45); iii) Những quy định có tính nguyên tắc chung đối với những trường hợp được áp dụng các biện pháp như: Miễn TNHS (Điều 29), miễn hình phạt (Điều 59); về án treo (Điều 65)….
* Căn cứ vào các quy định của Phần các tội phạm của BLHS, đó là căn cứ Điều 146 BLHS quy định về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.
2.2. Căn cứ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:
Thực tiễn xét xử cho thấy, khi cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, Tòa án thường xem xét các dấu hiệu sau:
– Tính chất, tầm quan trọng và giá trị của quan hệ xã hội bị hành vi phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi xâm hại;
– Dạng hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện;
– Hậu quả thiệt hại đã gây ra cho người dưới 16 tuổi; tuổi của nạn nhân;
– Mức độ thực hiện tội phạm;
– Phạm tội riêng lẻ hay là đồng phạm, hình thức đồng phạm;
– Công cụ, phương tiện phạm tội, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh thực hiện tội phạm;
– Mức độ lỗi, mục đích phạm tội và động cơ phạm tội;
– Nguyên nhân, điều kiện phạm tội;
– Những đặc điểm nhân thân ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, v.v…
2.3. Căn cứ nhân thân người phạm tội:
Việc cân nhắc nhân thân người phạm tội giúp cho Tòa án không những hiểu được tính chất con người phạm tội mà còn đánh giá được khả năng giáo dục, cải tạo họ để có hình phạt và mức hình phạt phù hợp, giúp cho Tòa án đánh giá được tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân, điều kiện của việc thực hiện tội phạm… Trên cơ sở đó, Tòa án thực hiện được nguyên tắc cá thể hóa hình phạt và bảo đảm nguyên tắc công bằng khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội.
Nhân thân người phạm tội là một khái niệm rộng, đa dạng, nhưng khi cân nhắc nhân thân người phạm tội để quyết định hình phạt thì không có nghĩa là xem xét nhân thân nói chung mà chỉ xem xét những đặc điểm nhất định liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội cụ thể cũng như liên quan đến mục đích của hình phạt. Để quyết định hình phạt đúng, một trong những đòi hỏi quan trọng là phải làm rõ những đặc điểm về nhân thân người phạm tội. Những đặc điểm về nhân thân người phạm tội được thể hiện trong lý lịch bị can, bị cáo và các tài liệu khác có liên quan. CQĐT, VKS và Tòa án phải chứng minh những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo.
Nhân thân người phạm tội bao gồm cả mặt tốt và cả mặt xấu. Trong một số trường hợp có những đặc điểm về nhân thân người phạm tội đã được quy định là yếu tố loại trừ TNHS, miễn hình phạt, định tội, định khung hình phạt hoặc quy định là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS, do đó, khi quyết định hình phạt cần phân biệt từng trường hợp cụ thể. Tòa án cũng cần phải cân nhắc đầy đủ các đặc điểm về nhân thân người phạm tội chưa quy định là yếu tố định tội, định khung hình phạt hoặc là tình tiết tăng nặng, là tình tiết giảm nhẹ TNHS.
2.4. Căn cứ những tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Khi quyết định hình phạt Tòa án phải cân nhắc những tình tiết giảm nhẹ TNHS, những tình tiết tăng nặng TNHS.
Việc vận dụng những tình tiết giảm nhẹ TNHS, những tình tiết tăng nặng TNHS chính xác giúp Tòa án đánh giá đúng đắn tính chất vụ án, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi và người phạm tội, trên cơ sở đó mới có thể quyết định loại và mức hình phạt công bằng, có căn cứ và đúng pháp luật. Tòa án cần phải nhận thức, quán triệt được đầy đủ nội dung, ý nghĩa pháp lý của từng tình tiết cụ thể được quy định tại khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 52 của BLHS và đồng thời phải chú ý những điểm sau:
Thứ nhất, bảo đảm nguyên tắc công bằng trong xử lý hình sự, nên các tình tiết tăng nặng TNHS đã được BLHS quy định là dấu hiệu định khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 146 BLHS như: Phạm tội có tổ chức; Phạm tội 02 lần trở lên; Tái phạm nguy hiểm thì thì Tòa án không được coi là tình tiết tăng nặng TNHS trong khi quyết định hình phạt (khoản 2 Điều 52 BLHS).
Thứ hai, trong các điểm của khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 52 BLHS, Nhà làm luật có thể quy định một hoặc nhiều tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS.
Thứ ba, khoản 2 Điều 51 BLHS quy định Tòa án có thể coi những tình tiết khác ngoài những tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 là những tình tiết giảm nhẹ TNHS. Trái lại, ngoài các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS, Tòa án không được coi các tình tiết khác là tình tiết tăng nặng TNHS;
Thứ tư, các điều luật quy định các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS không xác định cụ thể về ý nghĩa, mức độ ảnh hưởng của các tình tiết này trong quyết định hình phạt mà việc đánh giá được trao cho Tòa án khi xét xử từng vụ án cụ thể. Các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng TNHS có giá trị, ý nghĩa pháp lý, xã hội, chính trị không đồng đều nhau, nó tùy thuộc vào từng vụ án dâm ô người dưới 16 tuổi cụ thể, từng người phạm tội cụ thể, và ở từng thời điểm khác nhau. Có tình tiết ảnh hưởng lớn đến việc quyết định hình phạt và đối với mọi trường hợp phạm tội, nhưng có tình tiết tác động ít hơn. Có tình tiết chỉ có ý nghĩa đáng kể với một số tội phạm, còn đối với những tội phạm khác thì chỉ có ý nghĩa hạn chế;
Thứ năm, thực tiễn cho thấy, trong một vụ án hình sự có thể không có tình tiết giảm nhẹ hoặc tình tiết tăng nặng TNHS nào, nhưng cũng có thể chỉ có một hoặc nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS hoặc chỉ có một hoặc nhiều tình tiết tăng nặng TNHS và cũng có thể vừa có tình tiết tăng nặng TNHS, vừa có tình tiết giảm nhẹ TNHS đan xen nhau.
Trong trường hợp này Tòa án không những cần phải tự đánh giá, cân nhắc để xác định tính chất, ý nghĩa và mức độ ảnh hưởng của từng tình tiết mà còn phải đánh giá các tình tiết này một cách tổng thể thống nhất trong mối liên hệ biện chứng và tác động ảnh hưởng qua lại với nhau trong toàn bộ vụ án. Thông thường nếu tính chất của các tình tiết giảm nhẹ TNHS tương đương với tính chất của các tình tiết tăng nặng TNHS thì khi quyết định hình phạt Tòa án coi như không có các tình tiết đó. Nhưng nếu các tình tiết giảm nhẹ TNHS có ý nghĩa giảm nhẹ nhiều hơn thì Tòa án quyết định hình phạt theo hướng giảm nhẹ TNHS. Ngược lại, nếu các tình tiết tăng năng TNHS có ý nghĩa tăng nặng nhiều hơn thì Tòa án quyết định hình phạt theo hướng tăng nặng TNHS đối với người phạm tội theo như nghị quyết số 01/2001/NQ- HĐTP ngày 15/3/2001 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của các điều 139, 193, 194, 278, 279 và 289 BLHS năm 1999; Điểm d khoản 1 Điều 2
3. Những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với tội phạm dâm ô với người dưới 16 tuổi:
Khoản 1 Điều 51 BLHS có 22 điểm quy định về nhiều tình tiết giảm nhẹ khác nhau áp dụng đối với người phạm tội; có điểm quy định một tình tiết giảm nhẹ, nhưng có điểm quy định nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS, ví dụ điểm a quy định hai tình tiết giảm nhẹ: i) Người phạm tội đã ngăn chặn tác hại của tội phạm; ii)Người phạm tội làm giảm bớt tác hại của tội phạm; hoặc điểm s quy định hai tình tiết giảm nhẹ: i) Người phạm tội thành khẩn khai báo; ii) người phạm tội ăn năn hối cải.
Trong số các tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 điều 51 BLHS, những tình tiết sau đây được áp dụng đối với người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi:
i) Người phạm tội đã ngăn chặn tác hại của tội phạm hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm (điểm a);
ii) Người phạm tội đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả (điểm b);
iii) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn (điểm h);
iv) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng (điểm i); iv) Phạm tội do lạc hậu (điểm m);
v) Người phạm tội là phụ nữ có thai (điểm n);
vi) Người phạm tội là người từ 70 tuổi trở lên (điểm 0);
vii) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc đặc biệt nặng (điểm p);
viii) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình (điểm q);ix) Người phạm tội tự thú (điểm r);
x) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải (điểm s);
xi) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án (điểm t);
xii) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác (điểm v);
xiii) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ (điểm x).
Theo khoản 2 Điều 51 BLHS, khi quyết định hình phạt, ngoài những tình tiết nêu trên, Tòa án có thể coi đầu thú, tức là việc người phạm tội sau khi bị phát hiện đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình hoặc những tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ TNHS, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
Việc quy định như trên thể hiện rõ tính nhân đạo của LHS Việt Nam và cũng là hợp lý, vì các tình tiết giảm nhẹ TNHS trên thực tế rất đa dạng. Có những tình tiết chỉ có tính chất cá biệt, không phổ biến, nó chỉ có ý nghĩa đáng kể đối với một số tội phạm, còn đối với các tội phạm khác nó chỉ có ý nghĩa nhỏ. Nên khoản 1 Điều 51 BLHS không thể quy định được hết các tình tiết đó mà chỉ ghi nhận những tình tiết điển hình, phổ biến và quan trọng nhất; còn các tình tiết giảm nhẹ khác để lại thẩm quyền đánh giá tùy nghi áp dụng cho Toà án để giảm nhẹ hình phạt đối với người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi. Tuy nhiên, việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ khác phải phù hợp với CSHS và các chính sách khác của Nhà nước, phù hợp với đạo đức xã hội và phải sát với từng trường hợp phạm tội cụ thể.
Khi vận dụng các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ TNHS để quyết định hình phạt đối với người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, Tòa án phải ghi rõ trong bản án để Tòa án có thẩm quyền xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm có thể qua đó nhằm kịp thời phát hiện uốn nắn các sai sót có thể xảy ra. Đồng thời mức độ giảm nhẹ của các tình tiết đó thấp hơn so với những tình tiết giảm nhẹ TNHS theo Khoản 1 Điều 51 BLHS.
Thực tiễn xét xử đã coi những tình tiết sau là tình tiết được Tòa án áp dụng là tình tiết giảm nhẹ, như:
i) Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có công với cách mạng;
ii) Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31 % trở lên;
iii) Người bị hại cũng có lỗi;
iv) Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo;…
Ngoài ra, tùy từng trường hợp cụ thể hoặc hoàn cảnh cụ thê của người phạm tội, Tòa án khi xét xử có thể coi những tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ TNHS. Ví dụ, bị cáo là người cháu được bà ngoại là mẹ Việt Nam Anh hùng nuôi dưỡng từ nhỏ hoặc có cha mẹ được tặng thưởng nhiều giấy khen, bằng khen trong quá trình học tập, công tác thì khi xét xử Tòa án có thể áp dụng là tình tiết giảm nhẹ TNHS theo khoản 2 Điều 51 BLHS theo công văn số 148/2002/KHXX của TANDTC ngày 30/9/2002 về việc hướng dẫn áp dụng Điều 46, 47 BLHS.
4. Những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với tội dâm ô người dưới 16 tuổi:
Những tình tiết tăng nặng TNHS là những tình tiết làm tăng nặng mức độ TNHS của người phạm tội trong phạm vi một khung hình phạt nhất định. Đây là những tình tiết phản ảnh đặc điểm thuộc về mặt khách quan, chủ quan hoặc nhân thân người phạm tội. Khi quyết định hình phạt, Tòa án chỉ được cân nhắc các tình tiết tăng nặng TNHS sau đây được quy định trong khoản 1 Điều 52 BLHS. Ngoài các tình tiết đó, Tòa án không được coi các tình tiết khác là tình tiết tăng nặng TNHS. Đó là:
i) Phạm tội có tổ chức (điểm a);
ii) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp (điểm b);
iii) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội (điểm c);
iv) Phạm tội có tính chất côn đồ (điểm d);
v) Phạm tội vì động cơ đê hèn (điểm đ);
vi) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng (điểm e);
vii) Phạm tội từ hai lần trở lên (điểm g);
viii) Phạm tội trong trường hợp tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm (điểm h); ix) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi (điểm i);
x) Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc người khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác (điểm k);
xi) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội (điểm u);
xii) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội (điểm m);
xiii) Dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho từ hai người trở lên (điểm n);
xiv) Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội (điểm o);
xv) Có hành động xảo quyệt, hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm (điểm p)
Trong số các tình tiết tăng nặng TNHS nêu trên có những tình tiết trong thực tiễn không được áp dụng đối với người phạm tội dâm ô đối với trẻ em như: Dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho từ hai người trở lên (điểm n); Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội (điểm o); Phạm tội đối với người 70 tuổi trở lên (điểm i); Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp (điểm b)…
Tình tiết được nhà làm luật quy định là tình tiết định tội như phạm tội đối với người dưới 16 tuổi (điểm i) hoặc những tình tiết đã được quy định là tình tiết định khung tăng năng TNHS như phạm tội có tổ chức, phạm tội từ hai lần trở lên, tái phạm nguy hiểm sẽ không được áp dụng là tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS.