Đặc xá là một chính sách thể hiện sự khoan hồng của pháp luật nước ta, đặc xá thường được diễn ra vào những ngày lễ lớn, trọng đại của đất nước. Để được đặc xá thì phải được đề nghị và đáp ứng những điều kiện theo quy định. Vậy trong trường hợp phạm nhân bị bệnh hiểm nghèo có được đặc xá không?
Mục lục bài viết
1. Quy định của pháp luật về đặc xá:
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Đặc xá 2018 thì đặc xá là sự khoan hồng đặc biệt của Nhà nước do Chủ tịch nước quyết định tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt.
Căn cứ Điều 11 Luật Đặc xá 2018 thì đối tượng được đề nghị đặc xá là người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, người bị kết án phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn và phải có đủ các điều kiện sau đây:
(1) Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt và được xếp loại chấp hành án phạt tù khá hoặc tốt theo quy định, phạm nhân là người đã chấp hành nghiêm Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, tích cực học tập, lao động, cải tạo và các quý đã đủ thời gian xếp loại trong quá trình chấp hành án phạt tù được xếp loại khá hoặc tốt.
(2) Đã chấp hành án phạt tù được một thời gian do Chủ tịch nước quyết định nhưng:
+ Đối với trường hợp bị phạt tù có thời hạn thì đã chấp hành được ít nhất là một phần ba thời gian nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù.
+ Đối với trường hợp bị phạt tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn thì đã chấp hành án phạt tù ít nhất là 14 năm nếu sau khi đã được giảm xuống tù có thời hạn mà tiếp tục được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm sau đó không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù.
Riêng đối với người bị kết án về các tội sau: tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế – xã hội; tội phá hoại chính sách đoàn kết; tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân; tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân; người bị kết án từ 10 năm tù trở lên về một trong các tội quy định tại Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người của Bộ luật Hình sự do cố ý hoặc người bị kết án từ 07 năm tù trở lên về tội cướp tài sản; tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; tội sản xuất trái phép chất ma túy; tội mua bán trái phép chất ma túy; tội chiếm đoạt chất ma túy của Bộ luật Hình sự thì:
+ Đối với trường hợp bị kết án phạt tù có thời hạn thì đã chấp hành án phạt tù được một thời gian do Chủ tịch nước quyết định nhưng ít nhất là một phần hai thời gian, nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù.
+ Đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn, nếu sau khi đã được giảm xuống tù có thời hạn mà tiếp tục được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm sau đó không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù thì đã chấp hành án phạt tù ít nhất là 17 năm.
(3) Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, đã nộp án phí
(4) Đã thi hành xong nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác đối với người bị kết án phạt tù về các tội phạm tham nhũng hoặc tội phạm khác do Chủ tịch nước quyết định trong mỗi lần đặc xá
(5) Đã thi hành xong hoặc thi hành được một phần nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác nhưng do lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn thuộc trường hợp chưa có điều kiện thi hành tiếp phần còn lại theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự đối với người bị kết án phạt tù nhưng không thuộc trường hợp quy định tại điểm (4) nêu trên.
Trường hợp phải thi hành nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác đối với tài sản không thuộc sở hữu của Nhà nước thì phải được người được thi hành án đồng ý hoãn thi hành án hoặc không yêu cầu thi hành án đối với tài sản này
(6) Khi được đặc xá không làm ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự
(7) Không thuộc một trong các trường hợp không được đề nghị đặc xá
– Người đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù được đề nghị đặc xá phải có đủ các điều kiện sau đây:
(8) Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt và được xếp loại chấp hành án phạt tù khá hoặc tốt theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự trong thời gian chấp hành án phạt tù trước khi có quyết định tạm đình chỉ.
(9) Đã có thời gian chấp hành án phạt tù quy định tại điểm (2) nêu trên
(10) Các điều kiện quy định tại các điểm (3),(4),(5),(6),(7) nêu trên
(11) Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật trong thời gian được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù.
– Người có đủ các điều kiện quy định tại các điểm (1), (3), (4), (5), (6), (7) nêu trên và các điểm (8), (10) và (11) thì được Chủ tịch nước quyết định thời gian đã chấp hành án phạt tù ngắn hơn so với thời gian quy định tại điểm (2) nêu trên nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
+ Có xác nhận của trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện hoặc cơ quan có thẩm quyền khác về việc đã lập công lớn trong thời gian chấp hành án phạt tù. Lập công lớn được biểu hiện cụ thể như có hành động giúp trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự phát hiện, truy bắt, điều tra, xử lý tội phạm; cứu được tính mạng người khác hoặc tài sản lớn (có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên) của Nhà nước, của tập thể, của công dân trong thiên tai, hỏa hoạn….
+ Người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng; người được tặng thưởng danh hiệu Dũng sĩ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước; người được tặng thưởng danh hiệu “Anh hùng Lao động”; người được tặng thưởng một trong các loại Huân chương, Huy chương Kháng chiến; cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng liệt sĩ khi còn nhỏ; con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng; cha, mẹ, vợ, chồng, con của người có công giúp đỡ cách mạng được tặng Kỷ niệm chương “Tổ quốc ghi công” hoặc Bằng “Có công với nước”
+ Người đang mắc bệnh hiểm nghèo, người đang ốm đau thường xuyên mà không tự phục vụ bản thân. Người bị kết án phạt tù đang ốm đau thường xuyên mà không tự phục vụ bản thân quy định tại điểm c khoản 3 Điều 11 Luật Đặc xá là người đang phải nằm điều trị tại bệnh xá, bệnh viện liên tục từ 03 tháng trở lên hoặc không liên tục nhưng phải nằm điều trị tại bệnh viện từ ba lần trở lên, mỗi lần từ 01 tháng trở lên, không tự phục vụ bản thân, có kết luận bằng văn bản của Hội đồng giám định y khoa hoặc bệnh viện cấp tỉnh, cấp quân khu trở lên.
+ Khi phạm tội là người dưới 18 tuổi
+ Người từ đủ 70 tuổi trở lên
+ Có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và bản thân là lao động duy nhất trong gia đình. Người bị kết án phạt tù có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và bản thân là lao động duy nhất trong gia đình quy định tại điểm a khoản 3 Điều 11 Luật Đặc xá là trường hợp gia đình của người bị kết án phạt tù đang lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn do tai nạn, ốm đau, thiên tai, hỏa hoạn hoặc sự kiện bất khả kháng khác dẫn đến không còn tài sản gì đáng kể, không có thu nhập hoặc thu nhập dưới mức chuẩn hộ nghèo hoặc có bố đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con ốm nặng kéo dài, không có người chăm sóc mà người đó là lao động duy nhất trong gia đình, được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi gia đình người đó cư trú xác nhận là đúng.
+ Phụ nữ có thai hoặc có con dưới 36 tháng tuổi đang ở với mẹ trong trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ
+ Người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định của pháp luật về người khuyết tật; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy định của pháp luật về dân sự
+ Và một số trường hợp khác theo quy định.
2. Phạm nhân bị bệnh hiểm nghèo có được đặc xá không?
Căn cứ khoản 5 Điều 11 Nghị định 52/2019/NĐ-CP quy định người bị kết án phạt tù đang mắc bệnh hiểm nghèo là người mắc một trong các bệnh:
+ Ung thư giai đoạn cuối, liệt
+ Lao năng kháng thuốc
+ Xơ gan cổ chướng, suy tim độ III trở lên
+ Suy thận độ IV trở lên
+ Bệnh HIV giai đoạn lâm sàng IV đang có nhiễm trùng cơ hội, không có khả năng tự phục vụ bản thân và có tiên lượng xấu, nguy cơ tử vong cao hoặc mắc bệnh khác mà được Hội đồng giám định y khoa hoặc bệnh viện cấp tỉnh, cấp quân khu trở lên kết luận bằng văn bản là không tự phục vụ bản thân, nguy cơ tử vong cao.
Như đã phân tích ở phần 1 thì người mắc bệnh hiểm nghèo nếu thuộc các trường hợp tại điểm 1,2,3,4,5,6,7 thì được đề nghị đặc xá và đối với trường hợp này thì cách tính thời gian đã chấp hành hình phạt tù sẽ được Chủ tịch nước quyết định ngắn hơn so với quy định.
3. Đặc xá khác đại xá thế nào?
Ân xá là đặc ân của nhà nước trong việc miễn giảm trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt với người phạm tội, thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước ta với những người phạm tội, giúp cho người phạm tội khả năng ăn năn hối cả, cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho xã hội và nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng. Ân xá được thực hiện với hai hình thức là đại xá và đặc xá.
– Định nghĩa
Đại xá là sự khoan hồng của Nhà nước nhằm tha tội hoàn toàn cho một số loại tội phạm nhất định với rất nhiều người phạm tội nhân sự kiện quan trọng trong đời sống chính trị của đất nước. Còn đại xá là sự khoan hồng đặc biệt của Nhà nước do Chủ tịch nước quyết định tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt.
– Bản chất
Đại xá là tha, miễn hình phạt cho một số loại tội phạm hoặc một loạt người phạm tội đã hoăc chưa bị truy tố, xét xử, thi hành án. Còn đặc xá là tha tù trước thời hạn đối với một số người nhất định đang chấp hành hình phạt, trong trường hợp họ có ý thức cải tạo tốt, lập được công, quá già yếu, mắc bệnh hiểm nghèo…
– Đối tượng áp dụng
Đối với đại xá thì người phạm tội đang ở trong bất kỳ giai đoạn nào, từ truy tố, xét xử đến thi hành án, áp dụng trên phương diện rộng, với hàng loạt hành vi phạm tội và hàng loạt người phạm tội theo điều kiện nhất định. Còn đối với đặc xá thì người phạm tội đang trong giai đoạn thi hành án phạt tù (tù có thời hạn, tù chung thân), phạm vi áp dụng hẹp hơn đại xá
– Thẩm quyền quyết định
+ Quốc hội quyết định đại xá, thường được đưa ra trong phiên họp Quốc hội và được các đại biểu thống nhất thông qua.
+ Chủ tịch nước quyết định đặc xá, người đề nghị đặc xá phải đáp ứng được điều kiện theo quy định và có đơn đề nghị đặc xá gửi đến Chủ tịch nước.
– Hậu quả pháp lý
+ Người được đại xá trở thành người không có tội, trong lý lịch tư pháp không có án tích.
+ Người được đặc xá được miễn chấp hành hình phạt còn lại nhưng không được xóa án tích ngay, vẫn có tiền án trong lí lịch tư pháp.
Những văn bản sử dụng trong bài viết:
Văn bản hợp nhất Bộ luật Hình sự năm 2017
Luật Đặc xá năm 2018, số 30/2018/QH14
Nghị định 52/2019/NĐ-CP hướng dẫn Luật Đặc xá
THAM KHẢO THÊM: