Trong Tín ngưỡng thờ Mẫu, đứng cuối cùng thuộc hàng hạ ban có Quan Ngũ Hổ và Quan Xà Thần là hai loài vật được nhân dân tôn kính, đại diện cho sức mạnh, sự dẻo dai, linh hoạt, được nhân dân cúng thờ trong hệ thống thần linh tứ phủ. Vậy Quan Xà Thần trong Tứ Phủ là gì? Có hầu giá Quan Xà Thần hay không?
Mục lục bài viết
1. Ông Lốt là ai?
Quan Xà Thần hay còn gọi là Ông Lốt hay Thanh Xà Bạch Xà là hai vị thần rắn thuộc hàng cuối cùng trong Tứ Phủ Thần Hệ, hai vị thần rắn được gọi chung là Ông Lốt. Khác với Quan Ngũ Hổ đặt tượng dưới ban thờ Thánh Mẫu, rắn thần thường được đặt trong điện thờ theo ba cách:
‐ Hoặc Thần Xà đặt với Ngũ Hổ ở dưới gầm ban Công Đồng.
‐ Hoặc Thần Xà được vắt ngang phía bên trên ban Công Đồng.
‐ Hoặc Thần Xà được vắt trên xà nhà của điện thờ Tứ Phủ.
2. Sự tích Ông Lốt:
Dãy cuối cùng của điện Tứ Phủ Công Đồng là hai vị thần rắn được gọi chung là Ông Lốt. Trong khi Quan Ngũ Hổ tượng trưng cho rừng thì Quan Lốt là biểu tượng thủy thần của miền sông nước. Hai vị thần rắn màu xanh lá và màu trắng có hiệu là Thanh Xà Đại Tướng và Bạch Xà Đại Tướng quân. Thần Rắn được đặt cạnh ban thờ ngũ hổ ở tầng dưới, hoặc được vắt ngang trên xà nhà của điện thờ Tứ Phủ. Ông Lốt phụng sự Thánh Mẫu và Công đồng, có nhiệm vụ canh giữ đền thờ, canh giữ âm binh, đường thủy, trừ tà, diệt quỷ. Còn một phần thờ Mẫu Tứ Phủ đặc biệt nữa gọi là Tam Đầu Cửu Vĩ. Đó là rắn thần ba đầu chín đuôi, là núi của một số Quan Lớn, Quan Hoàng như Quan Lớn Đệ Tam, Quan Hoàng Cả…
3. Xà Thần có về ngự đồng không?
Thanh Xà, Bạch Xà ít khi về ngự đồng. Khi ngự đồng, ngải đắng nằm dại ra sập, úp bụng xuống đấy và quẫy qua quẫy lại, đu đưa đầu lên xuống để bái vua Cha, thánh Mẫu, phun rượu bốn phương để khai quang, hiến tửu bằng cách liếm đĩa rồi xa giá hồi cung. Xà thần được thờ ở hầu hết các đình, miếu của tứ phủ nhưng ngài cũng có đền thờ riêng. Có 3 ngôi đền nổi tiếng là Đền Cấm Tuyên Quang, Đền Canh Nghệ An và Đền Thần Rắn Gia Lai.
4. Hầu giá Thanh Xà, Bạch Xà:
Sau khi hầu xong giá Ngũ Hổ, cung văn kiều thỉnh Xà Thần lên ngụ. Khi ngự đồng sẽ hầu nằm dại ra sập công đồng và úp bụng xuống đất, đồng thời quẫy đi quẫy lại. Tứ Trụ bảo giá Thanh Xà hoặc Bạch Xà bằng cách tung khăn bỏ ra một bên. Tứ trụ có thể trùm khăn phủ diện lên lưng của Đồng biểu tượng Ngài đang ngự, hoặc trùm khăn vải trắng tượng trưng cho Bạch xà, vải xanh tượng trưng cho Thanh xà. Tứ trụ sau đó bỏ một bó hương gói trong lá trầu vào miệng ông Mãng Xà. Đồng lắc đầu lạy Vương Mẫu, phun rượu bốn phương năm hướng để khai quang. Tứ Trụ bèn rót rượu ra đĩa, dâng lên ông Rắn, ông Rắn hiển tửu rồi liếm đĩa. Sau đó xa giá hồi cung.
5. Rắn và tục thờ thủy thần trong tín ngưỡng của người Việt:
Ở Việt Nam, tín ngưỡng này tồn tại lâu đời dưới hai hình thức: tục thờ khả năng sinh sản của nam và nữ (khác với Ấn Độ chỉ thờ khả năng sinh sản của nam giới) và tín ngưỡng thờ các hành vi giao phối (con người và động vật, kể cả ở Đông Nam Á có ít hình thức này). Những dấu tích này còn lưu giữ được trong nhiều di tích tượng và cột đá, trong cách trang trí nhà mồ Tây Nguyên, trong một số phong tục tập quán, vũ điệu, mà rõ nhất là hình dáng và hoa văn của trống đồng cổ.
Việc trồng lúa nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố tự nhiên dẫn đến tín ngưỡng tôn sùng thiên nhiên. Ở Việt Nam, đó là một tôn giáo đa thần và tôn vinh nữ thần, thờ cúng cả động vật và thực vật. Một sách nghiên cứu (xuất bản năm 1984) liệt kê có 75 nữ thần, chủ yếu là bà, mẹ (không chỉ có Chúa, ngoài ra còn có Mẫu Thượng, Bà Trời hay Mẫu Cửu Trùng, Mẫu Thượng Ngàn hay Bà Chúa Sông…)
Thực vật được tôn sùng nhất là Cây lúa, sau đó tới Cây đa, Cây cau, Cây dâu, quả Bầu. Về động vật, họ có xu hướng tôn thờ các loài động vật hiền như hươu, nai, cóc chứ không phải động vật là thú dữ như văn hóa du mục. Các loài động vật phổ biến ở vùng sông nước như chim nước, rắn, cá sấu được đặc biệt tôn thờ.
Người Việt cho mình thuộc họ Hồng Bàng, cũng như Rồng Tiên (Hồng Bàng là tên một loài chim nước lớn, Tiên là trừu tượng của chim đẻ trứng, Rồng là trừu tượng của rắn và cá sấu). Rồng sinh ra từ nước bay lên trời là một biểu tượng độc đáo và ý nghĩa của dân tộc Việt Nam. Động vật đi vào đời sống văn hóa của nhân loại bằng nhiều cách thức và biểu hiện khác nhau. Mỗi loài đều có những ý nghĩa tượng trưng nhất định, đại diện cho văn hóa, tín ngưỡng, phong tục, lối sống hay đặc trưng của một dân tộc, một vùng miền. Nhưng có lẽ không con vật nào có ý nghĩa tượng trưng phong phú như rắn.
Hình ảnh con rắn không chỉ có mặt ở hầu hết các nền văn hóa mà còn mang nhiều ý nghĩa khác nhau, đôi khi trái ngược nhau. Rắn tượng trưng cho cả nam và nữ; là vị thần sáng tạo, tượng trưng cho vũ trụ trong hỗn loạn, nhưng đôi khi là thành viên gia đình hoặc người bảo vệ, nguồn gốc của nước và lửa, thần phúc và ác, tốt và xấu, tượng trưng cho sự sống và cái chết bất tử, trái đất và địa ngục, sự hủy diệt và tái sinh, tình yêu, dục vọng và tội lỗi… Trong văn hóa dân gian Việt Nam, rắn là một hình ảnh phổ biến và mạnh mẽ của người Việt ở đồng bằng sông Hồng. Tục thờ rắn có thể thấy ở các đền chùa ven sông Hồng, sông Cầu, sông Đuống… và qua các di tích, lễ hội. Tục thờ rắn như thủy thần không chỉ phổ biến ở vùng đồng bằng Bắc Bộ mà còn ở các tỉnh miền Trung, Trung Bộ và Tây Nam Bộ. Đền Rắn nay được biết đến ở thôn Lương Ngọc, xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thủy. Tại đây có một dòng suối rất nhiều cá. Theo truyền thuyết, rắn thần bảo vệ đàn cá ở đây. Người dân cho rằng ai làm hại đàn cá sống ở đây sẽ lãnh hậu quả khó lường.
Hội quán thôn Phú Bài, xã Thủy Phù, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế cũng lập bàn thờ rắn đã mất từ lâu. Tương truyền có hai con rắn một dài một ngắn là con của thần gió, từng hiện ra giúp dân làng làm mưa thuận gió hòa nên dân làng tưởng nhớ và thờ làm thần gió.
Đối với người dân miền Tây Nam Bộ, rắn cùng với hổ, cá sấu… là những đối tượng cần cảnh giác, xử lý và chế ngự. Có lẽ vì thế mà ngày nay vẫn còn rất nhiều câu chuyện, giai thoại về rắn. Người ta sợ rắn, muốn lại gần rắn nên thờ rắn. Tại xã Định Thủy, huyện Mỏ Cày Bến Tre, có một ngôi đình rắn vẫn còn tương truyền về loài rắn khổng lồ hiền lành.
Nhìn chung, thờ rắn là một trong những tín ngưỡng sơ khai của người Việt cổ. Xuất phát từ môi trường tự nhiên gắn với điều kiện sông nước, đầm lầy, hình tượng con rắn đồng hóa với nước, thủy thân và đi vào tâm thức dân gian từ rất sớm và thường được gắn với thờ cúng các vị thần tự nhiên. Khi lịch sử phát triển, nhiều tầng văn hóa đã được thêm vào kinh nghiệm thờ cúng rắn và ít nhiều được sửa đổi theo từng điều kiện. Vì vậy, “Thủy Tinh với tư cách là một đối thủ của Sơn Tinh không có mặt trong các thành Hoàng có sắc phong cũng như các thần có thành tích; chỉ gặp trong những thân sắc ghi chung chung là thủy thần thời Hùng Vương.”
Không chỉ thờ rắn với tư cách là thủy thần, nhưng người Việt Nam cũng coi rắn là vật tổ. Thờ vật tổ là hình thức tín ngưỡng sơ khai tồn tại giữa các thị tộc. Người ta tôn thờ động vật và thực vật, tin vào mối quan hệ của những người sống với nhau trong cộng đồng. Cũng có dấu vết của tục thờ vật tổ rắn của người Việt cổ trong các văn bản cổ. Sách Thuyết văn tự ghi: ở Đông Nam Bộ, người Việt thuộc họ rắn với người Man hay Nam Man (nghĩa là họ coi rắn là vật tổ của mình); hay Lĩnh Nam Ngô Chân Phương Nhật Ký mô tả một cuộc hiến tế rắn của người Việt ở huyện Triều Châu, tỉnh Quảng Đông ngày nay. Ninh Viết Giao, sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian Nghệ An, có đề cập đến mô-típ rắn xanh, cũng được nhiều nơi nhắc đến, chẳng hạn: “Rắn xanh được nhiều nơi thờ và đưa vào làm mô-típ trong truyện vì rắn đại diện cho thủy thần trước khi là rồng.” Con rắn cũng trở thành vật tổ của họ Ngân (ở miền núi Nghệ An) khi giúp họ Ngân tìm nước giải hạn trong những lần trốn chạy. Trong nội dung Thần thoại Lạc Việt, Đinh Gia Khánh cũng đề cập đến tục thờ vật tổ của người Việt: “Lạc Long Quân thuộc họ rồng, chi tiết này phản ánh tục thờ Giao Long làm vật tổ. Nhờ có hình xăm rồng Giao, tổ tiên ta tự cho mình là hậu duệ của Giao Long qua các thời kỳ. Phan Đăng Nhật, phân tích loài rắn trong mối quan hệ giữa rắn và người, cũng kết luận rắn và người có quan hệ họ hàng gần gũi, thậm chí có cùng huyết thống. Tác giả khái quát biểu tượng con rắn trong mối quan hệ với con người ở ba điểm: rắn là con nuôi của con người, là mẹ người + … = rắn; hôn nhân người – rắn; mẹ người + bố rắn = trứng. Cuối cùng, tác giả mô phỏng truyền thuyết chim tổ và truyền thuyết rắn bố để trở thành mẹ tiên – bố rồng Lạc sinh ra bọc trứng.