Giảm án là hình thức giảm thời gian chấp hành hình phạt, giảm án được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thông thường sẽ được áp dụng cho các đối tượng đang chấp hành án phạt tù. Vậy theo quy định của pháp luật hiện nay thì nuôi con nhỏ dưới 36 tuổi có được giảm án hay không?
Mục lục bài viết
1. Nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi có được giảm án không?
Giảm án, hay còn được gọi là giảm thời gian chấp hành hình phạt, đây là chế định pháp luật mang tính chất nhân đạo, phản ánh sự khoan hồng của nhà nước đối với người phạm tội, chế định giảm án được thể hiện thông qua việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là Toà án quyết định cho người bị kết án với mức hình phạt thấp hơn so với bản án đã tuyên khi đối tượng đó đáp ứng đầy đủ điều kiện và tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật. Như vậy, để được giảm án thì cần phải đáp ứng được điều kiện và tiêu chuẩn do pháp luật quy định. Chế định giảm án hay còn được gọi là giảm thời gian chấp hành hình phạt cơ bản đã tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho quá trình triển khai, áp dụng hình phạt trên thực tế, theo đó người bị kết án nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định và có nhiều tiến bộ thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể ra quyết định giảm án đối với những đối tượng đó, tạo điều kiện để khuyến khích phạm nhân phấn đấu cải tạo tốt sớm hòa nhập cộng đồng.
Căn cứ theo quy định tại Điều 63 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về giảm mức hình phạt đã tuyên. Theo đó:
– Người bị kết án cải tạo không giam giữ, người bị kết án phạt tù có thời hạn, người bị kết án phạt tù chung thân, trong trường hợp đã chấp hành hình phạt được một khoảng thời gian nhất định, nhận thấy có nhiều tiến bộ và đã thực hiện nghĩa vụ bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan có thẩm quyền đó là tòa án có thể ra quyết định giảm thời gian chấp hành hình phạt. Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xem xét giảm lần đầu sẽ được xác định là một phần ba (1/3) thời gian đối với hình phạt cải tạo không giam giữ/hình phạt tù có thời hạn, 12 năm đối với hình phạt tù chung thân;
– Một người hoàn toàn có thể được giảm án nhiều lần, tuy nhiên cần phải đảm bảo người đó chấp hành được một phần hai (Ít nhất là 1/2) mức hình phạt đã tuyên. Người bị kết án tù chung thân, lần đầu sẽ được giảm xuống 30 năm tù, dù đã được giảm nhiều lần cũng cần phải đảm bảo thời hạn thực tế chấp hành hình phạt tối thiểu là hai mươi lăm;
– Trong trường hợp người bị kết án về nhiều tội danh khác nhau, trong đó có tội bị kết án tù chung thân thì cơ quan có thẩm quyền đó là tòa án chỉ xem xét giảm án lần đầu xuống 30 năm tù, sau khi người đó đã chấp hành được ít nhất 15 năm tù, và mặc dù được giảm án nhiều lần tuy nhiên vẫn cần phải bảo đảm thời gian chấp hành án thực tế ít nhất là 25 năm;
– Đối với các cá nhân đã được giảm một phần hình phạt, tuy nhiên lại thực hiện hành vi phạm tội mới ở mức độ ít nghiêm trọng xuất phát với lỗi cố ý, thì cơ quan có thẩm quyền đó là tòa án chỉ xem xét làm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được ít nhất một phần hai (1/2) mức hình phạt chung;
– Đối với người đã được giảm một phần hình phạt, tuy nhiên lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới ở mức độ nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì cơ quan có thẩm quyền đó là tòa án chỉ xem xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được ít nhất hai phần ba (2/3) mức hình phạt chung, hoặc trường hợp hình phạt chung là tù chung thân thì việc xét giảm án sẽ được thực hiện khi người đó đã chấp hành được ít nhất 15 năm tù;
– Đối với người bị kết án tử hình được đơn giản theo quy định của pháp luật hoặc đối với người bị kết án tử hình thuộc trường hợp tại khoản 3 Điều 40 của Bộ luật hình sự năm 2015 thì thời gian đã chấp hành hình phạt để làm căn cứ xét giảm án lần đầu là 25 năm, mặc dù được giảm nhiều lần tuy nhiên vẫn cần phải đảm bảo thời gian thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm tù.
Như vậy, phụ nữ đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi không phải là một trong những căn cứ để giảm án.
2. Phụ nữ nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi có bị thi hành hình phạt tù không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 67 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về việc tạm hoãn chấp hành hình phạt tù. Theo đó:
– Người bị kết án phạt tù có thể được tạm hoãn chấp hành hình phạt khi thuộc một trong những trường hợp sau đây:
+ Bị bệnh nặng thì sẽ được hoãn cho đến khi sức khỏe của người bị kết án phục hồi;
+ Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con trong độ tuổi dưới 36 tháng tuổi sẽ được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi trở lên;
+ Người bị kết án được xác định là lao động duy nhất trong gia đình, nếu người đó phải chấp hành án phạt tù thì gia đình sẽ gặp phải hoàn cảnh khó khăn đặc biệt, khi đó người bị kết án sẽ được hoãn đến 12 tháng, ngoại trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội rất nghiêm trọng, loại tội đặc biệt nghiêm trọng;
+ Bị kết án về tội ít nghiêm trọng do tính chất công vụ thì có thể được hoãn đến 12 tháng.
– Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt tù lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới, thì cơ quan có thẩm quyền đó là tòa án bắt buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới căn cứ theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Theo đó thì có thể nói, đối với trường hợp người phụ nữ đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi thì sẽ là một trong những trường hợp được hoãn chấp hành hình phạt tù, thời gian hoãn chấp hành hình phạt tù sẽ được kéo dài cho đến khi con từ đủ 36 tháng tuổi trở lên.
3. Hoãn chấp hành hình phạt tù đối với phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi do cơ quan nào quyết định?
Căn cứ theo quy định tại Điều 21 của Luật thi hành án hình sự năm 2019 có quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của tòa án trong thi hành án hình sự. Theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn của tòa án bao gồm:
– Tòa án có quyền hạn ra quyết định thi hành án đối với vụ án hình sự, quyết định thành lập hội đồng thi hành án tử hình;
– Có quyền ra quyết định hoặc hủy bỏ quyết định vạn, quyết định tạm hoãn chỉ chấp hành án phạt tù, quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện, quyết định đình chỉ thi hành án hình sự, quyết định miễn chấp hành án hình sự, quyết định giảm thời gian chấp hành án, quyết định bắt buộc người được hưởng án treo cần phải chấp hành án phạt tù theo quy định của pháp luật, quyết định kéo dài thời gian trục xuất, quyết định rút ngắn thời gian thử thách đối với những đối tượng là người được hưởng án treo, quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện.
Theo đó thì có thể nói, đối với việc hoạt hình phạt tù trong trường hợp phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi sẽ do Tòa án xem xét khi xác minh đó là đúng sự thật, khi đó tòa án sẽ ra quyết định để phụ nữ phạm tội nuôi con cho đến khi con từ đủ 36 tháng tuổi trở lên, sau đó sẽ tiếp tục chấp hành hình phạt.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017);
– Luật Thi hành án hình sự 2019.
THAM KHẢO THÊM: