Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3 diễn ra trong bối cảnh Đảng đang tiến xa hơn trong việc thực hiện chủ trương cải cách đất nước và xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Mời bạn đọc cùng tìm hiểu bài viết Nội dung, vai trò Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3 của Đảng.
Mục lục bài viết
1. Hoàn cảnh lịch sử:
Hoàn cảnh diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3 vào tháng 9 năm 1960 rơi vào giai đoạn quan trọng trong lịch sử nước Việt Nam. Giai đoạn này là thời kỳ mà cuộc chiến tranh cứu nước đang tiếp diễn, với cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất của dân tộc Việt Nam trước sự can thiệp của các thế lực quốc tế, đặc biệt là Mỹ. Miền Bắc đã đạt được nhiều thành công quan trọng trong việc cải tạo và khôi phục kinh tế, trong khi cách mạng miền Nam cũng đang có những phát triển tích cực sau sự kiện Đồng Khởi. Đảng Lao động Việt Nam đã trải qua các giai đoạn quan trọng trong lịch sử cách mạng của nước Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3 diễn ra trong bối cảnh Đảng đang tiến xa hơn trong việc thực hiện chủ trương cải cách đất nước và xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đại hội lần này diễn ra với mục tiêu xem xét những thành tựu và thách thức của cuộc cách mạng, đánh giá tình hình kinh tế – xã hội, và xác định hướng đi cho các giai đoạn tiếp theo. Đây là cơ hội quan trọng để xác định chiến lược và chính sách của Đảng trong bối cảnh khó khăn và biến đổi. Đại hội diễn ra tại thủ đô Hà Nội, nơi có sự tham gia của đại biểu từ các cấp chính quyền, cơ quan Đảng, lực lượng vũ trang, và những người đại diện của các tầng lớp và ngành nghề khác nhau. Sự kiện này đã tạo nên một môi trường quan trọng để thảo luận, đưa ra quyết định và xây dựng sự đồng lòng trong Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3 đã đóng góp quan trọng vào việc xác định hướng đi của Đảng và đất nước trong bối cảnh khó khăn của cuộc Chiến tranh Việt Nam. Qua đó, nó đã góp phần xác định chủ trương và chính sách đúng đắn để thúc đẩy sự phát triển cách mạng và giành độc lập, tự do cho dân tộc
2. Nội dung Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3 của Đảng:
– Nhiệm vụ cách mạng miền Bắc:
Sau khi khắc phục hậu quả của Kháng chiến chống Pháp và thực hiện bước đầu nhiệm vụ của chính quyền dân chủ nhân dân theo kinh nghiệm từ Liên Xô và Đông Âu sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đại hội đã quyết định đưa miền Bắc tiến tới cách mạng xã hội chủ nghĩa. Điều này tạo ra quan điểm về cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý. Đồng thời, phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ ở miền Bắc cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển cách mạng toàn quốc và sự nghiệp thống nhất đất nước. Đại hội đã thể hiện mục tiêu giúp miền Bắc tiến xa, mạnh mẽ và vững chắc hơn trên con đường chủ nghĩa xã hội.
– Nhiệm vụ cách mạng miền Nam:
Vì việc thực hiện Tổng tuyển cử theo Hiệp định Giơnevơ 1954 của Pháp đã bị chính quyền Diệm đàn áp, và sự kiêng nể của Pháp dẫn đến tình hình không thể thống nhất Việt Nam. Với tình hình này, Đại hội đã quyết định tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tại miền Nam. Cuộc cách mạng này được coi là yếu tố quyết định đối với việc giải phóng miền Nam.
– Quan hệ cách mạng hai miền:
Đại hội đã thừa nhận mối quan hệ mật thiết, gắn bó và tác động lẫn nhau giữa hai miền cách mạng nhằm hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên khắp đất nước và thực hiện hòa bình thống nhất quê hương. Miền Bắc đã đóng góp sản xuất để hỗ trợ miền Nam, giúp việc tiến công và hoàn thành cách mạng thành công, thống nhất đất nước.
– Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1961-1965:
Nhằm đạt được mục tiêu tiến xa, mạnh mẽ và vững chắc trên con đường chủ nghĩa xã hội, Đại hội đã đề ra Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất từ 1961-1965. Mục tiêu chính của Kế hoạch này là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, với sự phát triển của công nghiệp nặng làm nền tảng. Đồng thời, sự phát triển của công nghiệp nhẹ và nông nghiệp cũng được chú trọng.
– Hoạt động khác:
Thông qua Báo cáo chính trị và Báo cáo sửa đổi Điều lệ Đảng, Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương mới với 47 ủy viên chính thức và 31 ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị mới với 11 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục đảm nhiệm vị trí Chủ tịch Đảng và đồng chí Lê Duẩn là Bí thư thứ nhất.
3. Vai trò chính của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3 của Đảng:
– Xem xét và đánh giá thành tích: Đại hội là dịp để Đảng xem xét và đánh giá thành tích, kết quả, những khó khăn, thách thức và những hạn chế trong thời kỳ trước. Điều này giúp Đảng cân nhắc và xác định hướng đi cho giai đoạn tiếp theo.
– Đề ra mục tiêu và đường lối phát triển: Đại hội quyết định về mục tiêu phát triển và đường lối phát triển của Đảng và đất nước trong giai đoạn tiếp theo. Đây là nền tảng quan trọng để định hình chiến lược phát triển toàn diện.
– Xây dựng, điều chỉnh và bầu Ban Chấp hành Trung ương: Đại hội thúc đẩy việc xây dựng, điều chỉnh và bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Ban Chấp hành Trung ương là cơ quan quản lý cao cấp của Đảng, có trách nhiệm thực hiện chỉ đạo toàn diện các hoạt động của Đảng.
– Thảo luận và thông qua văn kiện chính trị: Đại hội thảo luận và thông qua các văn kiện chính trị, như Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2, Báo cáo phương hướng phát triển kinh tế – xã hội, Báo cáo tình hình và kế hoạch phát triển của Đảng và nhà nước, cũng như các văn kiện quan trọng khác.
– Tạo nền tảng cho quản lý và lãnh đạo chính trị: Đại hội giúp củng cố quản lý và lãnh đạo chính trị bằng cách xác định những nguyên tắc, chính sách và hướng đi chung cho toàn bộ hệ thống chính trị, kinh tế và xã hội.
– Thể hiện tính dân chủ và quyết định nhân dân: Đại hội đại biểu toàn quốc thể hiện tính dân chủ và quyết định của nhân dân qua đại diện được bầu ra một cách trực tiếp từ các cấp cơ sở.
4. Nhiệm vụ cơ bản của Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất tại đại hội III:
Để nền kinh tế quốc gia phát triển hơn, không có phương pháp khác ngoài việc thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá trong bối cảnh xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trở thành nhiệm vụ vô cùng quan trọng trong giai đoạn chuyển từ chế độ cũ sang chế độ xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện bước đầu của quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cần thiết, đồng thời hoàn thiện quá trình cải cách xã hội chủ nghĩa, để biến kinh tế miền Bắc nước ta thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thống nhất. Đại hội đã xác định những nhiệm vụ chính trong Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất như sau:
– Tăng cường phát triển cả công nghiệp và nông nghiệp, đặc biệt là việc ưu tiên xây dựng cơ sở công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời cải thiện toàn diện ngành nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm và công nghiệp nhẹ.
– Hoàn thành quá trình cải cách xã hội chủ nghĩa cho các lĩnh vực như công nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và kinh doanh tư nhân, mở rộng mối quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế quốc doanh.
– Tăng cường văn hóa, nâng cao trình độ dân trí, tăng cường đào tạo cán bộ và công nhân có chất lượng, cải thiện khả năng quản lý kinh tế của cán bộ, đồng thời thúc đẩy công việc nghiên cứu khoa học và kỹ thuật.
– Cải thiện điều kiện sống và văn hóa của người dân, mở rộng dịch vụ công cộng, phát triển cuộc sống nông thôn và đô thị.
– Tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh xã hội.
5. Bài học kinh nghiệm:
Đại hội cũng đã quyết định các chủ trương nhằm củng cố Nhà nước dân chủ nhân dân, thể hiện sự nhất trí về chính trị của nhân dân, thúc đẩy tình đoàn kết quốc tế và thúc đẩy quá trình xây dựng Đảng. Đối với vai trò lãnh đạo của Đảng, Đại hội đã rút ra những bài học chủ yếu từ 30 năm cách mạng của nước ta. Đó là:
– Xây dựng Đảng theo tư tưởng Mác-Lênin với sự đoàn kết mạnh mẽ, tạo liên kết chặt chẽ với quần chúng, và duy trì sự vững mạnh của quyền lãnh đạo cách mạng.
– Hoàn thiện con đường và phương châm cách mạng đúng đắn, kết hợp giữa nhiệm vụ đấu tranh chống đế quốc và bè lũ tay sai, đồng thời đối mặt với nhiệm vụ đánh bại phong kiến, bước đến từng giai đoạn và kết hợp với cuộc đấu tranh chống đế quốc.
– Giải quyết triệt để vấn đề nông dân và xây dựng liên minh công nông mạnh mẽ.
– Dựa trên khối liên minh công nông vững mạnh, tập trung mọi lực lượng dân tộc và dân chủ thành một mặt trận thống nhất rộng rãi, dưới sự chỉ đạo của Đảng.
– Đặt xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng làm mục tiêu cốt lõi, kết hợp hoạt động hợp pháp và phi pháp, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, kết hợp lực lượng vũ trang với lực lượng chính trị.
– Tăng cường cơ cấu Nhà nước dân chủ nhân dân.
– Hiểu rõ hướng chiến lược để khai thác các mâu thuẫn cục bộ và tạm thời bên trong phe thù, tạo sự phân hóa, trung lập lực lượng có khả năng, và cách ly hoàn toàn những thế lực nguy hiểm nhất.
– Xây dựng mối quan hệ mạnh mẽ và đoàn kết với quốc tế.
Kinh nghiệm cách mạng đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là yếu tố quyết định mọi thành công của dân tộc chúng ta. Để hoàn thành sứ mệnh toàn diện, nhiệm vụ quan trọng nhất là không ngừng nâng cao sự lãnh đạo của Đảng. Điều này bao gồm “phải nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng,… củng cố sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, phải cải tiến công tác lãnh đạo của Đảng, phải nâng cao không ngừng trình độ hiểu biết và năng lực công tác của cán bộ đảng viên”