Nhằm mục đích giúp học sinh nắm vững kiến thức tác phẩm Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác Ngữ văn lớp 11 mời bạn đọc tìm hiểu bài viết Nội dung và nghệ thuật bài Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác.
Mục lục bài viết
1. Nội dung và nghệ thuật bài Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác:
1.1. Giá trị nội dung:
– Văn bản Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác chính là bài điếu văn do Ăngghen viết và đọc trước mộ của Các Mác vào ngày 14/3/1895. Bài điếu văn này có thể coi đây là bản tổng kết về toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp vĩ đại của vị lãnh tụ kiệt xuất Các Mác.
– Các Mác là nhà tư tưởng vĩ đại nhất, nhà hoạt động cách mạng lớn, những cống hiến của ông trở thành kho tàng tài sản chung cho cả nhân loại.
– Cảm xúc tiếc thương nhưng chủ yếu nghiêng về khẳng định, ngợi ca công lao và những cống hiến vĩ đại của Các Mác, sự tôn vinh của một vĩ nhân đối với một vĩ nhân.
1.2. Giá trị nghệ thuật:
Bố cục đoạn trích theo mô hình 3 phần của văn nghị luận:
– Phần 1 (Từ đầu đến “…vĩ nhân ấy gây ra”): tác giả kể đến tới không gian và thời gian liên quan tới sự ra đi của các Mác, tiên lượng sự mất mát, trống vắng của giai cấp vô sản, nhân dân thế giới và khoa học lịch sử trước sự ra đi của ông.
– Phần 2 (tiếp đến “…không làm gì thêm nữa”): tác giả đề cập đến những cống hiến vĩ đại của các Mác đối với nhân loại.
– Phần 3 (còn lại): các giá trị nói chung về những cống hiến của các Mác, những cống hiến đó đều hướng đến mục tiêu chung là phục vụ nhân loại. Bày tỏ tình cảm tiếc thương vô biên và khẳng định sự bất diệt của tên tuổi và sự nghiệp của Mác)
Ngôn ngữ nghệ thuật: nghệ thuật so sánh theo hình thức tăng tiến, trùng điệp
Nghệ thuật lập luận chặt chẽ, luận điểm, luận cứ, luận chứng rõ ràng, rành mạch
2. Dàn ý phân tích bài Ba cống hiến vĩ đại của Các-mác:
Mở bài:
TÁC GIẢ PH. ĂNG-GHEN
– Phri-đrích Ăng-ghen (1820 -1895) là nhà triết học người Đức, bạn thân thiết của Các Mác và là nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng của phong trào công nhân thế giới và Quốc tế cộng sản.
– Di sản lí luận của ông là một phần quan trọng trong lí luận của chủ nghĩa Mác.
CÁC MÁC
– Các Mác (1818 – 1883) là nhà triết học và lí luận chính trị vĩ đại người Đức, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới.
– Học thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa học của Các Mác mở đường cho nhân loại bước vào kỉ nguyên xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
TÁC PHẨM BA CỐNG HIẾN VĨ ĐẠI CỦA CÁC MÁC
– Văn bản Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác là bài điếu văn do Ăng-ghen viết và đọc trước mộ Mác vào ngày 14-3-1895. Tác phẩm là bản tổng kết về toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp lớn lao của vị lãnh tụ kiệt xuất Các Mác cũng như đánh giá cao cống hiến của ông, biểu lộ lòng tiếc thương vô hạn đối với Mác, tình cảm thái độ của một vĩ nhân trước một vĩ nhân.
Thân bài:
THÔNG BÁO SỰ RA ĐI CỦA CÁC MÁC – MỘT TỔN THẤT LỚN CỦA NHÂN LOẠI
– Ở phần mở đầu, Ăng-ghen thông báo rõ thời khắc ra đi vĩnh viễn của Các Mác bằng giọng văn ngậm ngùi, thương tiếc:
+ Thời gian: Chiều ngày 14 tháng 3, vào lúc ba giờ kém 15 phút. Vẻn vẹn chỉ có hai phút.
+ Không gian lúc ra đi:
Văn phòng của Các Mác
Trên chiếc ghế bành.
=> Không gian, thời gian cụ thể đến mức chi tiết gợi lên sự trang trọng, thiêng liêng của khoảnh khắc Mác qua đời.
– Sự ra đi của Mác rất nhẹ nhàng: Ngủ thiếp đi trên chiếc ghế bành nhưng là giấc ngủ nghìn thu. -> Nghệ thuật nói giảm, nói tránh góp phần xoa dịu đau thương nhưng không làm phai nhạt vị trí và tầm vóc Mác.
=> Niềm tiếc thương và kính trọng đối với Các Mác.
NHỮNG CỐNG HIẾN VĨ ĐẠI CỦA CÁC MÁC
– Tác giả làm nổi bật tầm vóc lớn lao những cống hiến của Mác bằng cách so sánh những cống hiến ấy với cống hiến của nhà khoa học tự nhiên nổi tiếng Đác-uyn.
+ Cống hiến thứ nhất: Các Mác đã tìm ra quy luật phát triển của xã hội loài người là hạ tầng cơ sở quyết định kiến trúc thượng tầng. Điều này rất khoa học và tiến bộ trái ngược hẳn với các quan niệm sai lầm trước đó.
+ Cống hiến thứ hai: Các Mác phát hiện ra giá trị thặng dư, quy luật vận động của phương thức tư bản chủ nghĩa. Từ đó Các Mác chỉ ra bản chất của giai cấp tư sản là bóc lột sức lao động của giai cấp công nhân để làm giàu.
+ Cống hiến thứ ba: Các Mác không chỉ dừng lại ở lí thuyết mà biến lí thuyết thành hành động cách mạng -> Đây là cống hiến quan trọng nhất.
=> Với ba cống hiến đó, Các Mác đã trở thành một nhà khoa học, một nhà cách mạng lỗi lạc và là người tiên phong trong sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản hiện đại, là “nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong các nhà tư tưởng hiện đại”.
– Dựa trên những cống hiến quan trọng và to lớn của Các Mác, Ăng-ghen khẳng định tài năng của Các Mác trên hai phương diện: Con người của phát minh khám phá và con người của hành động thực tiễn
+ Các Mác là người khởi xướng phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của giai cấp vô sản, lật đổ chính quyền tư sản
+ Các Mác kiên cường chống áp bức bất công để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động trên toàn thế giới
=> Khẳng định Các Mác là nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong số các nhà tư tưởng hiện đại, tên tuổi và sự nghiệp của Các Mác sẽ đời đời sống mãi.
THÁI ĐỘ, TÌNH CẢM XÓT THƯƠNG CỦA ĂNG-GHEN VỚI CÁC MÁC
– Tác phẩm sử dụng nghệ thuật nói giảm, nói tránh, không nói nhiều về cái chết => Nhấn mạnh sự bất tử của Các Mác.
– Đề cao, ngợi ca, tiếc thương vô hạn trước sự ra đi vĩnh hằng của Các Mác, những cống hiến mang lại lợi ích cho toàn thể nhân loại.
– Các Mác đã bị căm ghét nhiều nhất vì tất cả những xấu xa trong xã hội đương thời đã bị ông phơi bày ra trước ánh sáng. -> “Ông có thể có nhiều kẻ đối địch nhưng chưa chắc đã có một kẻ thù riêng nào cả”
– Giai cấp công nhân, cộng sự, nhân dân lao động trên toàn thế giới kính trọng, thương tiếc ông. -> tiếng khóc như lời khẳng định, lời cầu nguyện của Ăng-ghen trước mộ Các Mác.
=> Đây là bằng chứng hùng hồn rõ ràng cho thấy sức mạnh và sự bất tử của học thuyết Mác.
– Mục tiêu phê phán, đấu tranh suốt đời của Các Mác là chủ nghĩa tư bản, là tư tưởng, học thuyết phản động, duy tâm, bất công xã hội chứ không phải một cá nhân cụ thể nào.
Kết bài:
Tổng kết, đánh giá khái quát giá trị nội dung và đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm.
3. Bài phân tích tác phẩm Ba cống hiến vĩ đại của Các – Mác:
Là nhà triết học, lí luận, nhà đấu tranh dân chủ kiệt xuất của nhân loại, Ăng-ghen cũng có rất nhiều cống hiến trên lĩnh vực văn chương nghệ thuật. Bài diễn văn của Ăng-ghen đọc trước mộ Các Mác là một bài văn chính luận mẫu mực và có giá trị văn chương. Bài văn ngắn gọn súc tích, bố cục mạch lạc, lập luận chặt chẽ ca ngợi công lao và sự nghiệp của nhà lãnh tụ thiên tài nhân loại: Các Mác.
Ngay phần tiếp theo, tác giả có cách đặt tình huống gây một sự chú ý đặc biệt với người đọc: “Chiều ngày 14 tháng 3, vào lúc ba giờ kém mười lăm phút, nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong tất cả các nhà tư tưởng hiện đại đã ngừng suy nghĩ”. Câu văn kết thúc cũng là lời báo trước sự ra đi mãi mãi của Các Mác thật xúc động. Cách nói giảm nói tránh “nhà tư tưởng vĩ đại” “đã ngừng suy nghĩ” vừa tạo sắc thái kính cẩn nhưng cũng gợi vẻ trang nghiêm rất phù hợp với hình ảnh một con người suốt đời “hiến dâng vì sự nghiệp giai cấp vô sản toàn nhân loại”.
Cũng giống với các bài văn có nội dung đưa tiễn, khóc thương người đã khuất, trong phần kết thúc tác giả cũng bộc lộ rõ ràng cảm nghĩ của mình trước sự ra đi Mác: “Rồi đây, người đọc sẽ thấy nỗi trống trải do sự mất mát của vị lãnh tụ vĩ đại gây ra”. Ngôn ngữ ngắn gọn súc tích nhưng vẫn có sức truyền cảm sâu sắc, có sức khơi gợi được tình cảm kính yêu vô hạn của người đọc với vị lãnh tụ. Riêng ở phần hai, tác giả đã dành phần lớn dung lượng của bài để nhắc tới những đóng góp lớn lao của Mác. Trước hết, đó là tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người: con người trước hết cần phải có cái ăn, cái mặc, quần áo và nơi ở rồi từ đó mới được phát triển chính trị, khoa học, nghệ thuật và tôn giáo. Đó cũng là một logic đơn giản có tính biện chứng. Các thể chế chính trị, các tư tưởng khoa học, nghệ thuật, tôn giáo phải được bắt nguồn từ quá trình phát triển kinh tế, từ đời sống vật chất thiết thực, cụ thể. Cách đối chiếu với quy luật phát triển thế giới hữu cơ của Đác Uyn cộng với nghệ thuật liệt kê đã làm gia tăng sức thuyết phục đối với sự vĩ đại trong cống hiến của Mác.
Cống hiến thứ hai là việc phát hiện ra quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện nay và của giai cấp tư sản do phương thức ấy tạo ra. Đặc biệt là việc khám phá thặng dư – phần giá trị sinh ra ở sản phẩm so với khoản tiền chi để làm nên sản phẩm ấy. Cống hiến thứ ba là các phát minh khoa học có ảnh hưởng cách mạng đối với xã hội, đến sự phát triển lịch sử nói chung. Khi trình bày cống hiến thứ ba của Mác, tác giả có ý chia làm hai đoạn văn nhỏ:
Đoạn thứ nhất khẳng định con người khoa học ở Mác; đoạn thứ hai nhấn mạnh con người cách mạng ở Mác. Điều đặc biệt là mối quan hệ biện chứng giữa khoa học và cách mạng: “Khoa học với Mác là một động lực lịch sử, một lực lượng cách mạng”. Các Mác là một nhà khoa học nhưng trước hết ông cũng là một nhà cách mạng. “Đấu tranh là hành động tự giác của Mác”. Ông cũng là người tiên phong đưa đến cho giai cấp vô sản sự hiểu biết về địa vị và nhu cầu của mình. Cách trình bày ba cống hiến của Mác được Ăng-ghen sắp đặt chặt chẽ, theo một trật tự logíc nhất định. Bằng phương pháp nghị luận chặt chẽ, người đọc nhận thấy sự phát triển cụ thể của các cống hiến của Mác. Cống hiến sau lớn hơn, cao cả hơn cống hiến trước. Chẳng hạn để mở đầu cho lời giới thiệu cống hiến thứ hai (sau cống hiến thứ nhất) là lời giới thiệu: “Nhưng không chỉ có thế thôi”. Hoặc câu văn chuyển tiếp “Nhưng đấy cũng không phải điểm đặc biệt ở Mác” khiến tác giả đi đến kết luận: “Khoa học với Mác là một động lực lịch sử, một lực lượng cách mạng”. Các cụm từ như vì sao, trước hết, đó là liên kết các đoạn văn không những có tác dụng liên kết đoạn mà còn làm cho người đọc có nhiều hiểu biết rộng lớn và sâu sắc về Mác. Những lập luận tạo nên sự chặt chẽ, mạch lạc.
Lời của Ăng-ghen ở đoạn cuối, một lần nữa khẳng định được sự trường tồn của cuộc đời và sự nghiệp của Mác. Ở đó người đọc cũng nhận thấy một niềm tiếc thương, sự ngưỡng mộ sâu xa, một sự kính yêu vô bờ của Ăng-ghen với Mác. Đó cũng là sự vinh danh chính nghĩa khi Mác đứng về phía nhân dân đang tiến bộ và về phía giai cấp vô sản thế giới để bảo vệ quyền lợi của họ