Bài "Cha tôi" của Đặng Huy Trứ là một bài học sâu sắc về triết lí và giáo dục khuyên người ta phải biết phòng tránh các nguy hiểm, không tự mãn, tự phụ và luôn phấn đấu vươn lên sau mỗi lần thất bại. Sau đây là những ấn tượng sâu sắc của em khi đọc bài kí "Cha tôi", mời các bạn cùng theo dõi!
Mục lục bài viết
1. Những ấn tượng sâu sắc của em khi đọc bài kí Cha tôi ấn tượng:
Ý nghĩa nhân sinh bài “Cha tôi” trong tác phẩm “Đặng Dịch Trai ngôn hành lục” của Đặng Huy Trứ vô cùng cao đẹp. Niềm vui, nỗi lo của người cha về chí tiến thủ và cuộc đời thăng – trầm của người con đã đọng lại trong em cảm xúc sâu sắc
Sự kiện thứ nhất: Năm 1843, Đặng Huy Trứ 18 tuổi cùng đi thi Hương với cha tại trường thi Phú Xuân. Cha thi trượt, con đỗ cử nhân. Người cha khóc không phải vì mình thi trượt mà chỉ sợ con “kiêu căng, tự mãn, ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung, phúc đâu chẳng thấ, hoạ đã sẵn chờ”.
Sự kiện thứ hai xảy ra năm Đinh Mùi (1847), Đặng Huy Trứ thi Hội đỗ tiến sĩ và xếp thứ bảy. Tin vui báo về, người cha “lại rơi nước mắt” và nói: “Bậc đỗ đại khoa ắt phải là người phúc phận lớn. Con tôi đức độ ra sao mà được như vậy chỉ làm cho tôi thêm lo lắng”. Quả nhiên vào thi Đình, Đặng Huy Trứ vì phạm huý mà bị tước mất cả học vị cử nhân, tiến sĩ. Cũng trong dịp đó, người bác ruột làm quan ngự y qua đời. Cả nhà ai cũng buồn riêng thân phụ Đặng Huy Trứ lại nói: ”Tôi chỉ thương anh tôi thôi! Công việc của Trứ không đáng kể…” Sau việc tang, người cha lấy gương hai ông Phạm Văn Huy ở Thiên Lộc, ông Mai Anh Tuấn ở Thanh Hoá để khuyên con và nói: “Người ta ai chẳng có lúc mắc sai lầm, quý là ở chỗ biết sửa chữa”.
Câu “Thiếu niên đăng khoa nhất bất hạnh dã” có nghĩa là tuổi trẻ mà đỗ đạt cao là điều bất hạnh thứ nhất. Tuổi trẻ mà đỗ đạt cao là nhờ học giỏi và có tài năng lớn. Thế nhưng tuổi trẻ chưa từng trải, dễ sinh ra tự kiêu, tự phụ khi có ít nhiều danh vọng, dễ coi thường mọi người. Câu nói ấy là một lời khuyên có giá trị nhẳc nhở những tài năng trẻ biết tu dưỡng đạo đức, khiêm tốn, nỗ lực không ngừng phấn đấu, đã giỏi lại ngày một thêm giỏi, không được kiêu căng, tự mãn, tự phụ.
Câu nói trên thời xưa cũng như thời nay có ý nghĩa đúng, sai tuỳ thuộc đối với những con người cụ thể. Đối với bản thân Đặng Huy Trứ là đúng. Nhưng đối với Nguyễn Hiền, thời nhà Trần mới 13 tuổi đã thi đỗ trạng nguyên, trở thành một vị quan to trong triều thì lại không đúng. Lê Quý Đôn nổi tiếng thần đồng: Lên 10 tuổi đã đọc hết Tứ thư, Ngũ kinh. Năm 17 tuổi đỗ đầu thi Hương, năm 26 tuổi đỗ đầu thi Hội, vào thi Đình đỗ Bảng nhãn, làm quan to, từng giữ nhiều chức trọng yếu của triều đình thời nhà Lê. Với Lê Quý Đôn thì câu nói trên lại không đúng. Ngày nay cũng vậy, tuy môi trường giáo dục tiến bộ hơn, hiện đại hơn nhưng bài học khiêm tốn, tránh kiêu căng, tự phụ, tự mãn vẫn là bài học vô cùng sâu sắc đối với bất cứ ai, nhất là đối với những tài năng trẻ sớm đỗ đạt.
Trước việc con trai bị tước cả học vị cử nhân lẫn tiến sĩ, lời nói của Đặng Dịch Trai tiên sinh hàm chứa tính triết lí sâu sắc:
“Khi người ta đầy đủ lắm thì Trời gọt bớt đi cho bằng.
Sau cơn sấm sét, mưa mọc lại cỏ thể tưới nhuần.
Nếu cố gắng học, vẫn cỏn nhiều hi vọng.
Buổi sáng mất, buổi chiều lại thu về.
Người ta ai có lúc mắc sai lầm, quỷ là ở chỗ biết sửa chữa.”
Việc đỗ, trượt trong thi cử là chuyện hiển nhiên. Đi thi ai cũng hi vọng đỗ đạt cao, đệ nhất buồn là chuyên hỏng thi… Thi không ăn ớt thế mà cay. Đặng Dịch Trai đã khuyên con “nỗ lực tu tỉnh cho nên đã sẩy chân ngã mà lợi dùng lén dược… Lời khuyên ấy mang tính triết lí, là bài học về sự nỗ lực phấn đấu, kiên trì bền bỉ, biết sửa chữa sai lầm để vươn lên trong học hành thi cử và trong cuộc sống mai sau.
Đoạn kết: “Ông Phạm Văn Huy ở Thiên Lộc… quỷ tà ở chỗ biết sửa chữa” mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc: Thua keo này ta bày keo khác, thất bại là mẹ thành công, dũng cảm đứng thẳng dậy sau vấp ngã, có chí thì nên. Đó cũng là điều mà mọi người cần phải trau dồi và học hỏi.
Cuộc đời của Đặng Huy Trứ là một tấm gương sáng cho chúng ta học tập và noi theo. Mỗi khi đọc lại bài “Cha tôi”, ta nhận ra rằng hành trình học hành và tu dưỡng của mỗi người đều mang những bài học quý giá và những thử thách là cơ hội để chúng ta trưởng thành và thành công.
2. Những ấn tượng sâu sắc của em khi đọc bài kí Cha tôi đạt điểm cao:
Đặng Dịch Trai Ngôn hành lục của Đặng Huy Trứ là một tác phẩm chữ Hán ghi lại hồi ký và tự truyện của tác giả. Câu chuyện về người cha trong bài “Cha tôi” đã khắc họa sâu sắc những suy ngẫm về số phận, phúc ở trong cuộc đời, đặc biệt là trong hành trình học hành và thi cử.
Bài viết ghi nhận hai sự kiện quan trọng. Lần đầu vào năm 1843 khi Đặng Huy Trứ mới 18 tuổi, ông và cha cùng tham dự kỳ thi Hương. Ông được đỗ cử nhân trong khi cha ông không thành công và rơi lệ. Sự kiện thứ hai xảy ra vào năm 1848 khi Đặng Huy Trứ thi Hội đỗ tiến sĩ và xếp thứ bảy. Tuy nhiên do mắc lỗi về từ đồng âm trong bài thi Đình ông bị tước danh hiệu tiến sĩ và cử nhân. Đúng vào ngày 26 tháng 4, cha của ông qua đời khi ông vừa bị truất danh hiệu. Cha ông chỉ thương tiếc về tang lễ, không coi việc con trai bị mất danh hiệu là điều đáng quan tâm.
Cha ông khóc không phải vì việc bản thân không thi đỗ mà chính vì con trai đã thành công. Đó là lần đầu tiên Đặng Huy Trứ thi đỗ cử nhân khi nghe tiếng loa gọi và bước ra với tấm bằng, cha ông “dựa vào cây xoài, nước mắt ướt áo”.
Mọi người quan tâm hỏi: “Con đạt được danh hiệu cao là điều đáng mừng, tại sao ông lại khóc như vậy?” Cha ông thú nhận ước mơ của mình, mong muốn con trai chỉ cần quen với không khí thi cử và nếu may mắn đỗ cử nhân, trong nhà cũng đủ ăn đủ mặc mà không cần phải làm quan binh. Cha ông nhắc lại câu thành ngữ cổ: “Thiếu niên đăng khoa nhất hất hạnh dã” để thể hiện lo lắng của mình. Ông nói về những bài học trong cuộc đời và cảnh báo con trai về nguy hiểm của kiêu căng, tự mãn của những người trẻ vừa đỗ đạt. Những lời cha dạy thật sâu sắc và thấm đẫm ý nghĩa.
Năm 1847 khi vua Thiệu Trị mở kỳ thi Ân khoa, Đặng Huy Trứ 23 tuổi đã tham gia thi lại và đạt giải nguyên. Sau gần ba mươi năm trong sự nghiệp làm quan, ông để lại nhiều dấu ấn và thành tích xuất sắc trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao, văn học và văn hoá. Tác phẩm của ông, trong đó có 1252 bài thơ chữ Hán đã góp phần làm nên vẻ đẹp văn chương và văn hoá của thời đại.
Bài “Cha tôi” của Đặng Huy Trứ là một bài học sâu sắc về triết lí và giáo dục. Nó khuyên người ta phải biết phòng tránh các nguy hiểm, không tự mãn, tự phụ và luôn phấn đấu vươn lên sau mỗi lần thất bại. Đó là lời dạy của cha và là bài học về con người luôn cần được ghi nhớ.
3. Những ấn tượng sâu sắc của em khi đọc bài kí “Cha tôi” dành cho học sinh giỏi:
Đặng Dịch Trai ngôn hành lục của Đặng Huy Trứ (1825 – 1874) là một tác phẩm chữ Hán đầy tinh tế với nội dung là hồi ký và tự truyện. Bài viết “Cha tôi” trong tác phẩm này không chỉ đơn thuần là một bức tranh về hình ảnh người cha mà còn là một sự suy ngẫm sâu sắc về cuộc đời, về phúc và họa, đặc biệt là trong những thử thách của học vấn và thi cử.
Tác phẩm ghi lại hai sự kiện chính. Sự kiện đầu tiên xảy ra năm 1843 khi Đặng Huy Trứ mới 18 tuổi, cả cha và con đều tham gia thi Hương. Cha ông không đỗ nhưng con trai lại được cử nhân. Sự kiện này khiến người cha không khỏi rơi nước mắt. Sự kiện thứ hai diễn ra năm 1848 khi Đặng Huy Trứ thi Hội đỗ tiến sĩ nhưng bị tước danh hiệu vì phạm lỗi chính tả trong bài thi. Đúng ngày đó người cha của ông qua đời.
Lí do cha ông khóc không phải vì việc thi của bản thân mà là vì con trai đỗ. Vào năm ấy, Đặng Huy Trứ chỉ mới 18 tuổi nhưng đã đỗ cử nhân từ lần thi đầu tiên. Khi con trai bước ra, người cha “dựa vào cây xoài, nước mắt ướt áo”. Mọi người tỏ ra ngạc nhiên: “Con đỗ cử nhân là một thành tích đáng mừng, tại sao ông lại khóc như vậy?”, cha ông đã lý giải ước mơ của mình. Việc cho con thi lần đầu tiên chỉ là để làm quen với không khí của trường thi và may mắn là con đã đạt được danh hiệu cử nhân, giúp gia đình có thêm nguồn cơm áo gạo tiền. Ông không dám mơ ước con được tham gia triều đình. Ước mơ đó thực sự khiêm nhường, bình dị.
Cha ông nhắc lại câu ngạn ngữ “Thiếu niên đăng khoa nhất hạnh dã” để chia sẻ nỗi lo của mình. Ông dạy con phải trải qua cuộc sống, học hỏi từng bước. Con mới chỉ 18 tuổi, lần đầu thi đã đỗ cử nhân. Điều đó là phúc nhưng có thể trong phúc ấy lại chứa đựng nguy cơ. Vì ông lo rằng con trai mình có thể trở nên kiêu căng, tự mãn, không biết xấu hổ khi gặp khó khăn và hoạ đã sẵn sàng chờ đợi. Ông lo rằng “thuyền nhỏ sao kham nổi trọng tải lớn” và rằng con trai không sẵn sàng đương đầu với trách nhiệm nặng nề. Phải trải qua cuộc đời, trải qua những thử thách mới hiểu được nỗi lo ấy. Bài học về kiêu căng, tự mãn của những người trẻ sớm đạt được thành công mà ông đã chỉ ra thực sự rất sâu sắc và cảm động.
5 năm sau vào mùa xuân năm 1847, vua Thiệu Trị mở kỳ thi Ân khoa, Đặng Huy Trứ nay đã 23 tuổi lại tham gia thi Hội. Mặc dù đề thi rất khó, nhiều thí sinh thất bại nhưng Đặng Huy Trứ đã hoàn thành tất cả các mục tiêu và được xếp thứ bảy. Dù bài văn có một số lỗi, ông vẫn được ghi nhận là thứ bảy. Khi tin vui từ Hội thi đến, người cha lại rơi nước mắt. Một người đã đạt được danh hiệu cao quý thì sẽ được hạnh phúc. Con tôi đạt được những điều này như thế nào mà chỉ làm tôi lo lắng. Trong kỳ thi Đình, Đặng Huy Trứ đã dùng sai hai chữ “phong đô” và bốn chữ “nha miêu chi hại”, nên “bị tước danh hiệu tiến sĩ và bị hủy bỏ cả danh hiệu cử nhân”.
Phúc không đến đơn giản, họa cũng không đơn giản! Con trai gặp khó khăn trong kỳ thi Đình và anh trai làm quan ngự y qua đời. Cả nhà đều buồn nhưng cha của Đặng Huy Trứ chỉ quan tâm đến tang lễ, không coi trọng việc con trai bị mất danh hiệu tiến sĩ và cử nhân. Điều này cho thấy rằng ông đã có trước, dự đoán mọi sự việc có thể xảy ra và chuẩn bị trước cho những điều không tốt. Vì vậy khi con trai bị tước danh hiệu, cha ông vẫn bình tĩnh và “coi như không có chuyện gì đáng quan tâm”. Trong cuộc đời, chỉ những người biết cách dự phòng mới có thể giữ được thái độ bình tĩnh và tinh thần tự chủ như vậy.
Người cha thở dài vì tiếc thương anh trai qua đời, “ra đi là ra đi mãi mãi”… Người cha dành cho con mình – người vừa bị mất danh hiệu tiến sĩ những lời dạy bảo sâu sắc: “Khi người tài đạt đến mức độ cực đỉnh thì Thiên định lại sẽ làm cho họ trở nên tầm thường”. Phúc, họa, may mắn, rủi ro là những điều thường xuyên xảy ra đối với tất cả chúng ta. Câu chuyện trên của Đặng Huy Trứ là một bài học sâu sắc về cách sống.
THAM KHẢO THÊM: