Thừa kế được xem là một trong những nội dung quan trọng trong Bộ luật dân sự năm 2015. Nhiều người đặt ra câu hỏi: Những ai sẽ được đương nhiên hưởng di sản thừa kế mà người chết để lại?
Mục lục bài viết
1. Những ai đương nhiên được hưởng di sản thừa kế?
Pháp luật hiện nay đã có những quy định cụ thể về các trường hợp đương nhiên được hưởng di sản thừa kế không phụ thuộc vào di chúc và không phụ thuộc vào ý chí của người chết để lại. Pháp luật quy định những trường hợp này chủ yếu suất phát từ mục đích nhân đạo, mặc dù người chết không để lại cho họ nhưng họ vẫn sẽ đương nhiên được hưởng di sản thừa kế. Hiện nay căn cứ theo quy định tại Điều 624 của
– Con chưa thành niên;
– Cha hoặc mẹ của người để lại di sản;
– Vợ hoặc chồng của người để lại di sản;
– Con đã thành niên tuy nhiên không có khả năng lao động và không có khả năng tự nuôi chính bản thân mình.
Ví dụ: Tài sản của ông Đạt để lại là 450.000.000 đồng. Hàng thừa kế thứ nhất của ông Đạt bao gồm ông nội và bà nội, vợ, con. Một suất thừa kế theo pháp luật hiện nay được xác định bằng 90.000.000 đồng (tức là 450.000.000 : 5 người). Khi đó, mặc dù trong di chúc ông Đạt chỉ để lại di sản cho vợ, con của ông Đạt là người đã thành niên, tuy nhiên ông bà nội của ông Đạt vẫn sẽ được hưởng mỗi người 60.000.000 đồng (tức là hai phần ba của một suất thừa kế).
Theo như phân tích ở trên thì có thể nói, những người được xác định là đương nhiên được hưởng di sản thừa kế như sau:
Thứ nhất, con chưa thành niên. Người chết sau khi qua đời sẽ phải có nghĩa vụ đối với những người con chưa thành niên. Theo quy định của pháp luật hiện nay thì độ tuổi để xác định con chưa thành niên là những chủ thể đó chưa đủ 18 tuổi tại thời điểm mở thừa kế. Ngoài ra thì con chưa thành niên sẽ không phân biệt đó là những người con đẻ hay con nuôi, là những người con ngoài giá thú hai con trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên nếu các đối tượng được xác định là con nuôi thì phải là con hợp pháp, tức là phải thực hiện đầy đủ các thủ tục nhận nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thứ hai, cha hoặc mẹ của người để lại di sản. Xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo thì cha mẹ của những người để lại di sản sẽ là những người đương nhiên được hưởng di sản thừa kế. Những chủ thể này sẽ được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc và không phụ thuộc vào ý chí của người chết. Cha mẹ ở đây có thể bao gồm cả cha mẹ đẻ và
Thứ ba, vợ hoặc chồng của người để lại di sản. Vợ hoặc chồng sẽ được xác định là những người hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, và để có thể nhận tài sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc thì đó phải được xác định là vợ chồng hợp pháp và được pháp luật công nhận, có tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và vẫn đang trong thời kỳ hôn nhân tại thời điểm mở thừa kế.
Thứ tư, con đã thành niên tuy nhiên không có khả năng lao động. Hiện nay văn bản quy phạm pháp luật chưa có bất cứ một quy định nào định nghĩa chính xác về việc không có khả năng lao động. Tuy nhiên dựa vào tình hình thực tế thì có thể tạm hiểu người thành niên nhưng không có khả năng lao động tức là những người không có khả năng tự nuôi lấy chính bản thân mình, mặc dù họ đã được xác định là những người thanh niên vào thời điểm mở thừa kế, họ mắc các bệnh về tâm thần hoặc mắc các bệnh khác dẫn đến khả năng mất nhận thức và không thể làm chủ hành vi của mình ví dụ như bệnh bại liệt toàn, bệnh liệt cột sống, liệt hai chi trở lên, liệt đốt sống cổ, mù mắt, mất sức lao động với tỷ lệ từ 81% trở lên.
Như vậy những đối tượng trên đây sẽ được xác định là người đương nhiên được hưởng di sản thừa kế không phụ thuộc vào việc có tên trong di chúc hay không.
2. Điều kiện để đương nhiên được hưởng di sản thừa kế:
Theo như phân tích ở trên thì, các đối tượng nêu trên sẽ được xác định là người đương nhiên được hưởng di sản thừa kế. Tuy nhiên để được trở thành những đối tượng đương nhiên được hưởng di sản thừa kế mà người chết để lại thì cần phải đáp ứng được một số điều kiện nhất định. Điều kiện chung để được hưởng thừa kế đương nhiên và không phụ thuộc vào nội dung của di chúc thì những người thuộc hàng thừa kế đó bắt buộc phải tuân thủ các điều kiện sau đây:
– Không từ chối bằng di sản thừa kế căn cứ theo quy định tại Điều 620 của Bộ luật dân sự năm 2015;
– Không bị mất quyền thừa kế hưởng di sản căn cứ theo quy định tại Điều 621 của Bộ luật dân sự năm 2015. Cụ thể trong trường hợp này sẽ bao gồm những đối tượng như sau:
+ Được xác định là các đối tượng bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm đến sức khỏe hoặc tính, ngược đãi nghiêm trọng hoặc có hành vi hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự và nhân phẩm của người để lại di sản;
+ Người có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với người để lại di sản;
+ Người bị kết án về các hành vi cố ý xâm phạm đến tính mạng của những người đồng thừa kế khác nhằm mục đích chiếm một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà đáng lẽ ra người đồng thừa kế đó sẽ được quyền hưởng;
+ Những người có hành vi lừa dối hoặc cưỡng ép dưới bất kỳ hình thức nào hoặc có hành vi ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, có hành vi giả mạo di chúc hoặc sửa chữa di chúc trái với nguyện vọng của người chết, hủy di chúc hoặc che giấu di chúc nhằm mục đích hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý muốn của người chết.
– Cá nhân còn sống vào thời điểm mở thừa kế theo quy định của pháp luật.
3. Có được đương nhiên hưởng di sản thừa kế theo pháp luật không?
Hiện nay trong một số trường hợp nhất định, vi giản của người chết sẽ được chia theo pháp luật. Theo đó thì những người thừa kế theo pháp luật sẽ được dựa trên thứ tự như sau:
– Hàng thừa kế thứ nhất theo quy định của pháp luật hiện nay bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
– Hàng thừa kế thứ hai theo quy định của pháp luật hiện nay bao gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
– Hàng thừa kế thứ ba theo quy định của pháp luật hiện nay bao gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Trong đó căn cứ theo quy định tại Điều 651 của Bộ luật dân sự năm 2015 có nêu rõ, những người cùng hàng thừa kế sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau và tương đương nhau. Những người ở hàng thừa kế sau sẽ chỉ được hưởng thừa kế đối với phần di sản mà người chết để lại nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước đó do những người thuộc hàng thừa kế trước đó đã chết hoặc họ không có quyền hưởng thừa kế, hoặc họ bị truất quyền hưởng thừa kế hoặc từ chối nhận di sản theo nguyện vọng của bản thân mà không suất phát từ mục đích trốn tránh nghĩa vụ tài sản đối với người thứ ba.
Như vậy theo như phân tích ở trên thì có thể nói, việc chia thừa kế theo pháp luật sẽ được thực hiện theo hàng thừa kế và những người cùng hàng thừa kế sẽ được hưởng một phần di sản bằng nhau, vì vậy sẽ không có trường hợp đặc biệt nào được đương nhiên hưởng thừa kế theo pháp luật. Đồng thời thì Bộ luật dân sự năm 2015 hiện nay ngoài vấn đề đương nhiên hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, cũng chưa có bất kỳ điều luật nào quy định về việc người đương nhiên được hưởng thừa kế nếu di sản được chia theo pháp luật. Ngoài ra căn cứ theo quy định tại Điều 622 của Bộ luật dân sự năm 2015, nếu trong trường hợp không có người thừa kế theo di chúc hoặc không có người thừa kế theo pháp luật hoặc có những người thừa kế nhưng những người này không được hưởng di sản, họ từ chối nhận di sản, thì sau khi thực hiện nghĩa vụ mà người chết để lại, tài sản còn lại không có người nhận thừa kế sẽ đương nhiên thuộc về nhà nước. Như vậy thì khái niệm đương nhiên được hưởng di sản thừa kế sẽ chỉ được áp dụng trong trường hợp hưởng di sản theo di chúc như đã phân tích ở trên, quan niệm đương nhiên hưởng di sản thừa kế theo pháp luật là một quan niệm không đúng về mặt pháp lý và cũng không có bất kỳ trường hợp nào được đương nhiên hưởng thừa kế khi chia thừa kế theo pháp luật.
Tóm lại, việc đương nhiên hưởng thừa kế chỉ áp dụng với các đối tượng đã nêu ở trên.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015.