Những ai có thể làm người làm chứng cho việc lập di chúc? Vai trò của người làm chứng trong việc thừa kế theo di chúc?
Di chúc là phương tiện ghi nhận ý chí của các cá nhân về việc định đoạt tài sản của mình sau khi chết. Người làm chứng cho việc lập di chúc có những vai trò quan trọng trong quá trình lập di chúc. Hiện nay, trong một số trường hợp nhất định, để bảo đảm tính khách quan, chính xác và phản ánh đúng ý chí của người lập di chúc, pháp luật quy định phải có người làm chứng cho việc lập di chúc. Chính bởi vì thế mà người làm chứng đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng để di chúc có thể phát sinh hiệu lực trên thực tế, nếu người làm chứng không đáp ứng điều kiện thì sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý là di chúc vô hiệu. Bài viết dưới đây Luật Dương Gia sẽ giúp người đọc tìm hiểu quy định về người làm chứng cho việc lập di chúc và những ai có thể làm người làm chứng cho việc lập di chúc trong hệ thống pháp luật Việt Nam?
Luật sư tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.6568
1. Những ai có thể làm người làm chứng cho việc lập di chúc?
Những loại di chúc yêu cầu phải có người làm chứng:
Bên cạnh di chúc do người lập di chúc tự viết tay và ký tên là hợp pháp thì pháp luật nước ta quy định đối với một số loại di chúc yêu cầu phải có sự hỗ trợ của người làm chứng thì mới được xem là hợp pháp cụ thể như là:
– Di chúc do người lập di chúc tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hộ hoặc đánh máy bản di chúc.
– Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ và di chúc miệng.
Điều kiện để các loại di chúc này phát sinh hiệu lực trên thực tế là phải được làm chứng bởi ít nhất hai người làm chứng đủ điều kiện theo đúng quy định của pháp luật.
Người làm chứng cho việc lập di chúc được quy định cụ thể tại Điều 632
Hiểu một cách đơn giản thì người làm chứng là người hỗ trợ cho người để lại di sản trong quá trình lập di chúc, là người chứng kiến cho quá trình lập di chúc, thông qua đó, họ sẽ xác nhận năng lực nhận thức của người lập di chúc và bảo đảm nội dung di chúc là ý nguyện thực của người để lại di sản thông qua việc ký tên hay điểm chỉ vào bản di chúc.
“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.”
Từ quy định cụ thể được nêu trên ta thấy rằng: Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc trừ người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc của người lập di chúc; người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan đến nội dung di chúc và người chưa thành niên ( người dưới 18 tuổi ), mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi.
Người làm chứng là người chứng kiến sự việc một cách khách quan, độc lập và các chủ thể này không bị ràng buộc hoặc bị ảnh hưởng từ bất cứ yếu tố hay chủ thể nào mà liên quan đến sự việc mà họ chứng kiến trong việc lập di chúc của người đã chết. Điều 632 Bộ luật dân sự năm 2015 được quy định nêu trên cho phép mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc chỉ trừ các đối tượng sau đây:
– Thứ nhất: Các chủ thể là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc không thể trờ thành người làm chứng cho việc lập di chúc.
Theo nguyên tắc do pháp luật dân sự quy định thì các chủ thể là người làm chứng phải là những người không có quyền và nghĩa vụ tài sản liên quan đến việc lập di chúc và người được chỉ định trong di chúc. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc là chủ thể trong quan hệ thừa kế. Những người này sẽ được hưởng di sản của người lập di chúc, cho nên họ không thể là người làm chứng trong việc lập di chúc. Việc định đoạt của người lập di chúc sẽ ảnh hưởng lớn tới quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Việc người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc làm chứng sẽ không khách quản, dẫn đến người lập di chúc bị tác động về tâm lý, không thể tự do định đoạt theo ý chí của chính bản thân các chủ thể này.
Pháp luật Việt Nam loại trừ quyền làm chứng của những người thừa kế theo quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 632 Bộ luật Dân sự năm 2015 nhằm để bảo đảm tính khách quan của di chúc, tránh trường hợp những chủ thể này tự ý chỉnh sửa, giả mạo di chúc hoặc làm cho di chúc vô hiệu. Người thừa kế bao gồm người thừa kế theo di chúc và người thừa kế theo pháp luật.
– Thứ hai: Các chủ thể là người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc không thể trờ thành người làm chứng cho việc lập di chúc.
Những người có quyền và nghĩa vụ tài sản liên quan đến nội dung của di chúc cũng như là đồng chủ sở hữu đối với phần tài sản định đoạt trong di chúc, hoặc người là chủ nợ hoặc con nợ của người lập di chúc là người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến di sản thừa kế, cho nên sẽ không đảm bảo tính khách quan khi có tranh chấp.
Trong thực tế, nếu cho các chủ thể này làm chứng có thể làm di chúc không khách quan, thay đổi nội dung di chúc theo hướng có lợi cho họ (ví dụ như nhằm trốn tránh nghĩa vụ) nên không cho phép những người này làm chứng cho việc lập di chúc là hoàn toàn hợp lý.
– Thứ ba: Các chủ thể là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi không thể trờ thành người làm chứng cho việc lập di chúc.
Các chủ thể là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhạn thức, không làm chủ được hành vi và hậu quả của hành vi thì không được làm chứng cho việc lập di chúc.
Quy định như vậy là hợp lý vì những chủ thể này có vấn đề trong nhận thức nên việc làm chứng của họ không chính xác và độ tin cậy kém.
Tuy nhiên, quy định này vẫn còn thiếu trường hợp người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và người khiếm khuyết về thể chất ảnh hưởng đến khả năng nhận thức hay các chủ thể là người nước ngoài không thành thạo tiếng Việt, những người không nghe, nói, đọc, viết được tiếng dân tộc của nhau thì không nên làm chứng cho một loại ngôn ngữ mà mình không thành thạo, việc hạn chế quyền làm chứng của những người đó là hợp lý vì khả năng xác nhận, kiểm tra việc lập di chúc và nội dung di chúc của họ thiếu khả thi.
Ngoài ra, các chủ thể là người làm chứng cho di chúc miệng phải là người biết chữ.
Đối với di chúc miệng thì các chủ thể là người làm chứng có nghĩa vụ sau khi nghe di nguyện của người chết phải ghi chép lại bằng văn bản thì việc lập di chúc mới có thể hợp pháp, nên đòi hỏi người làm chứng phải biết chữ mới diễn đạt lại ý chí người lập di chúc thông qua chữ viết. Tuy nhiên, pháp luật dân sự không quy định rõ điều kiện này mà chỉ được rút ra từ việc suy luận quy định về di chúc miệng được quy định cụ thể tại khoản 5 Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Vai trò của người làm chứng trong việc thừa kế theo di chúc:
2.1. Hình thức của di chúc:
Hiện nay, dựa theo quy định của pháp luật thì di chúc bằng văn bản có bốn loại chính quy định cụ thể tại điều 628 Bộ Luật dân sự năm 2015, trong đó có một loại đề cập trực tiếp đến sự tham gia của người làm chứng đó là di chúc bằng văn bản có người làm chứng được quy định tại điều 634 Bộ Luật dân sự năm 2015 với nội dung như sau:
Đối với trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Các chủ thể là người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.
Ngoài ra, di chúc còn cần phải tuân theo các điều kiện khác của di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân thủ các quy định về nội dung của di chúc do pháp luật quy định.
Đối với trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.
2.2. Tính hợp pháp của di chúc:
Các chủ thể là người làm chứng có vai trò quyết định trong một vài trường hợp cụ thể để xác định tính hợp pháp của di chúc đó, cụ thể như sau:
– Đối với di chúc của các chủ thể là người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định cụ thể sau đây:
+ Chủ thể là người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép.
+ Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
– Đối với di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng và trong thời hạn 05 ngày làm việc thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.
Như vậy, ta nhận thấy, người làm chứng có vai trò quan trọng đối với việc xác định tính hợp pháp của di chúc trong một số trường hợp cụ thể do pháp luật quy định.