Nhà Nguyễn ra đời trong hoàn cảnh nào? Có bao nhiêu đời Vua?

Nhà Nguyễn là triều đại quân chủ cuối cùng của Việt Nam do các hoàng đế họ Nguyễn thuộc dòng Nguyễn Phúc lập ra. Vậy cụ thể nhà Nguyễn ra đời trong hoàn cảnh nào, và trong suốt thời kì triều đại Nhà Nguyễn đã có bao nhiêu vị vua, có những thành tựu gì?

1. Nhà Nguyễn ra đời trong hoàn cảnh nào?

Sau cái chết đột ngột của vua Quang Trung, triều đại Tây Sơn suy yếu dần. Tại thời điểm lúc bây giờ, Nguyễn Ánh đã giữ vững Nam Hà và đến năm 1802 đánh bại hoàn toàn Tây Sơn, ông chính thức lên ngôi hoàng đế, lập nên triều đại nhà Nguyễn với tên nước là Việt Nam, chọn Phú Xuân (Huế) làm kinh đô.

Nhà Nguyễn hình thành trong bối cảnh khá đặc biệt, đã trải qua rất nhiều những biến cố trong khoảng thời gian tồn tại. Nguyễn Ánh sau khi chạy trốn trong cuộc chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh cũng đã nằm gai nếm mật trong vòng 25 năm nuôi chí lớn trả thù quân Tây Sơn, đánh bại nghĩa quân Tây Sơn để dựng lên một nhà nước mới.

Trên thế giới, đầu thế kỷ thứ XIX là thời điểm mà chủ nghĩa tư bản đang phát triển rực rỡ với những thể chế chính trị mang tính chất dân chủ hơn. Trong khi đó cùng thời điểm tại Việt Nam thì nhà nước phong kiến triều Nguyễn đã ra đời. Đây chính là vương triều cuối cùng trong lịch sử quân chủ chuyên chế của Việt Nam. Sự kiện đánh dấu sự kết thúc của triều đại nhà Nguyễn là sự kiện Vua Bảo Đại (vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn) Thoái vị vào năm 1945 sau cuộc Cách mạng tháng Tám thành công.

2. Các đời vua Nhà Nguyễn:

Nhà Nguyễn có tất cả 13 đời vua:

2.1. Vua Gia Long (1802-1819):

Vua Gia Long tên thật là Nguyễn Phúc Ánh (Anh), ngoài ra ông còn có tên là Chủng và Noãn, là con thứ 3 của Nguyễn Phúc Côn (Luân) và bà Nguyễn Thị Hoàn. Ông sinh ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (8-2-1762).

Năm 1775, lợi dụng sự suy sụp của triều đình chúa Nguyễn do cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, quân Trịnh đã khởi binh vào chiếm Phú Xuân, để giữ lại tính mạng Nguyễn Phúc Ánh phải chạy trốn vào Nam. Từ đó Nguyễn Phúc Ánh bôn tẩu gian nan, tìm đủ mọi cách triệu tập lực lượng để giành lại vương quyền cho nhà họ Nguyễn.

Năm 1792, vua Quang Trung mất, quân Tây Sơn ngày càng trở lên suy yếu, ngược lại thì quân đội nhà Nguyễn đang ngày càng trở lên lớn mạnh với mong muốn ấp ủ lật độ nhà Tây Sơn khôi phục lại nhà Nguyễn. Năm 1801, quân Nguyễn do Nguyễn Phúc Ánh chỉ huy đã đánh chiếm vung đất Quy Nhơn và chiếm cả vùng Thuận Hóa.

Ngày 1/2/1802, Nguyễn Phúc Ánh đã lên ngôi Hoàng đế ở Phú Xuân, lấy niên hiệu là Gia Long, ông chính thức lập nên triều đại nhà Nguyễn. Tháng 3 năm 1804, vua Gia Long đổi quốc hiệu nước ta là Việt Nam.

Gia Long làm vua được 18 năm (1802 – 1819), ông mất vào ngày 19 tháng Chạp năm Kỷ Mão (tức ngày 3 tháng 2 năm 1820), hưởng thọ 58 tuổi. Sau khi ông mất, bài vị vua Gia Long được đưa vào thờ ở Thế Miếu và có Miếu hiệu là Thế Tổ Cao Hoàng đế. Vua Gia Long có tất cả 31 người con (13 người con trai và 18 người con gái)

2.2. Vua Minh Mạng (1820-1840):

Vua Minh Mạng tên thật là Nguyễn Phúc Đảm, còn có tên gọi khác là Kiểu, ông là người con thứ 4 của vua Gia Long và bà Nguyễn Thị Đang (Thuận Thiên Cao Hoàng hậu). Ông sinh ngày 23 tháng 4 năm Tân Hợi (25/5/1791) tại làng Tân Lộc, tỉnh Gia Định. Vua Minh Mạng bắt đầu lên ngôi vào tháng Giêng năm Canh Thìn (1820), làm vua được 21 năm (1820 – 1840). Trong thời gian ở ngôi vua, ông đã có nhiều cải cách quan trọng cho nước nhà: cho bỏ các dinh và trấn mà thành lập các tỉnh (cả nước được chia làm 31 tỉnh); định lại quan chế, đặt mức lương bổng của các quan tùy theo ngạch trật; thống nhất việc đo lường và thống nhất y phục; khuyến khích dân khai hoang lập ấp, sửa sang hệ thống giao thông, lập nhà Dưỡng tế ở các tỉnh để giúp đỡ những người nghèo khổ, tàn tật, già cả không nơi nương tựa…

Ông đặc biệt đề cao Nho học và khuyến khích nhân tài ra giúp nước là một trong những việc rất được vua Minh Mạng chú trọng. Nhà vua cho lập Quốc Tử Giám, mở thêm kỳ thi Hội và thi Đình (thời Gia Long chỉ có thi Hương).

Lãnh thổ Việt Nam dưới thời Minh Mạng được mở rộng nhất trong lịch sử và Việt Nam thực sự trở thành một quốc gia hùng mạnh. Vì vậy vào năm 1838, vua Minh Mạng cho đổi tên nước ta thành Đại Nam.Vua Minh Mạng mất vào ngày 28 tháng Chạp năm Canh Tý (20-1-1841), hưởng thọ được 50 tuổi. Sau khi mất, bài vị của vua Minh Mạng được đưa vào thờ ở Thế Miếu với Miếu hiệu Thánh Tổ Nhân Hoàng đế. Vua Minh Mạng có tất cả 142 người con (74 người con trai, 68 người con gái)

2.3. Vua Thiệu Trị (1841-1847):

Vua Thiệu Trị có tên thật là Nguyễn Phúc Miên Tông, ngoài ra còn có tên gọi khác là Tuyền và Dung. Ông là con trưởng của vua Minh Mạng và bà Hồ Thị Hoa (Tá Thiên Nhân Hoàng hậu), sinh ngày 11 tháng 5 năm Đinh Mão (16-6-1807) tại ấp Xuân Lộc, phía Đông Kinh Thành Huế. Vua Thiệu Trị lên ngôi vua vào ngày 20 tháng Giêng năm Tân Sửu (11-2-1841), làm vua được 7 năm (1841-1847), mất ngày 27 tháng 9 năm Đinh Mùi (4-10-1847), hưởng thọ 41 tuổi. Sau khi mất, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu Hiến Tổ Chương Hoàng đế. Ông có 64 người con (29 người con trai, 35 con gái).

2.4. Vua Tự Đức (1848 – 1883):

Vua Tự Đức có tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, ngoài ra còn có tên khác là Thì. Ông là con thứ 2 của vua Thiệu Trị và bà Phạm Thị Hằng (Hoàng hậu Từ Dũ), sinh ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu (22-9-1829).Vua Tự Đức lên ngôi vào tháng 10 năm Đinh Mùi (1847), làm vua được 36 năm (1847-1883), mất ngày 16 tháng 6 năm Quý Mùi (19-7-1883), hưởng thọ 55 tuổi. Sau khi mất, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu Dực Tông Anh Hoàng đế.

Vua Tự Đức không có con, ông nhận 3 người cháu gọi bằng chú làm con nuôi là: Nguyễn Phúc Ưng Chân (sau này là vua Dục Đức); Nguyễn Phúc Ưng Đường (sau này là vua Đồng Khánh); Nguyễn Phúc Ưng Đăng (sau này là vua Kiến Phúc).

2.5. Vua Dục Đức (1883, 3 ngày):

Vua Dục Đức tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Ái, ông là con thứ 2 của Thụy Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Y và bà Trần Thị Nga. Vua Dục Đức sinh ngày 4 tháng 1 năm Quý Sửu (11-2-1853). Năm 17 tuổi ông được vua Tự Đức chọn làm con nuôi và đổi tên là Ưng Chân, cho xây Dục Đức Đường để ở và giao cho Hoàng Quý Phi Vũ Thị Duyên (sau này là Lệ Thiên Anh Hoàng hậu) trông coi, dạy bảo. Vua Tự Đức mất để di chiếu truyền ngôi cho Ưng Chân, nhưng trong di chiếu có đoạn viết: “… Nhưng vì có tật ở mắt nên hành vi mờ ám sợ sau này thiếu sáng suốt, tính lại hiếu dâm cũng là điều chẳng tốt chưa chắc đã đảm đương được việc lớn. Nước có vua lớn tuổi là điều may cho xã tắc, nếu bỏ đi thì biết làm sao đây.”Lúc làm lễ lên ngôi, Ưng Chân đã cho đọc lướt đoạn này nên 3 ngày sau hai Phụ chính Đại thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đã phế bỏ Dục Đức theo lệnh của Từ Dũ Thái hoàng Thái hậu (mẹ vua Tự Đức) và Lệ Thiên Anh Hoàng hậu (vợ vua Tự Đức). Mới làm vua được 3 ngày chưa kịp đặt niên hiệu (Dục Đức chỉ là tên gọi nơi ở) thì Ưng Chân đã bị phế bỏ và giam vào ngục cho đến khi mất. Ông mất ngày 6 tháng 9 năm Giáp Thân (24-10-1884), hưởng thọ 32 tuổi. Đến đời vua Thành Thái (con vua Dục Đức) vào năm 1892 đã truy tôn cha mình là Cung Tôn Huệ Hoàng đế. Vua Dục Đức có 19 người con (11 con trai và 8 con gái).

2.6. Vua Hiệp Hòa (1883, 4 tháng):

Vua Hiệp Hòa tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Dật, còn có tên là Thăng, con thứ 29 của vua Thiệu Trị và bà Đoan Tần Trương Thị Thuận, sinh ngày 24 tháng 9 năm Đinh Mùi (1-1-1847). Sau khi Vua Dục Đức bị phế bỏ, Hồng Dật được đưa lên ngai vàng vào ngày 30 tháng 7 năm 1883, lấy niên hiệu là Hiệp Hòa.

Do có ý thân Pháp, nên vua Hiệp Hòa lên ngôi chưa được bao lâu thì bị triều đình Huế phế bỏ và buộc uống thuốc độc tự vẫn vào ngày 30 tháng 10 năm Quý Mùi (29-11-1883). Dưới thời Thành Thái vào năm 1891, ông được truy phong là Văn Lãng Quận vương. Vua Hiệp Hòa có 17 người con (11 con trai, 6 con gái).

2.7. Vua Kiến Phúc (1883-1884):

Kiến Phúc tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, ông là con thứ 3 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh. Ông sinh ngày 2 tháng Giêng năm Kỷ Tỵ (12-2-1869). Năm 1870 lúc được 2 tuổi, Ưng Đăng được vua Tự Đức nhận làm con nuôi và giao cho bà Học Phi Nguyễn Thị Hương trông coi, dạy bảo. Sau khi vua Hiệp Hòa bị phế truất, vào ngày 2-12-1883, Ưng Đăng (15 tuổi) được đưa lên ngôi vua và đặt niên hiệu là Kiến Phúc. Vua Kiến Phúc ở ngôi được 8 tháng thì mất vào ngày 10 tháng 6 năm Giáp Thân (31-7-1884) khi mới 16 tuổi. Sau khi ông mất, bài vị vua Kiến Phúc được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu là Giản Tông Nghị Hoàng đế.

2.8. Vua Hàm Nghi (1884-1885):

Vua Hàm Nghi tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, còn có tên khác là Minh. Ông là con thứ 5 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan Thị Nhàn, ông sinh ngày 17 tháng 6 năm Tân Mùi (3-8-1871). Sau khi vua Kiến Phúc mất, ngày 12 tháng 6 năm Giáp Thân (2-8-1884) Ưng Lịch được đưa lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Hàm Nghi khi mới 14 tuổi.

Binh biến năm Ất Dậu (5-7-1885) xảy ra, vua Hàm Nghi cùng quần thần ra Tân Sở, phát hịch Cần Vương, phát động phong trào kháng Pháp trên toàn quốc. Quân Pháp nhiều lần kêu gọi nhà vua quay về nhưng thất bại. Ngày 30 /10 /1888, tên Trương Quang Ngọc (người hầu của vua) bị Pháp mua chuộc nên đã đem người bắt vua Hàm Nghi dâng cho Pháp.

Vua Hàm Nghi bị quân Pháp bắt đi đày ở Algérie vào ngày 13 tháng 1 năm 1889. Ông sống ở đó cho đến lúc mất (4-1-1943), hưởng thọ 72 tuổi. Vua Hàm Nghi có 3 người con (1 con trai, 2 con gái).

2.9. Vua Đồng Khánh (1886-1888):

Vua Đồng Khánh tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Thị, còn có tên khác là Đường và Biện. Ông là con trưởng của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh, sinh vào ngày 12 tháng Giêng năm Giáp Tý (19-2-1864). Năm 1865 lúc được 2 tuổi, Ưng Thị được vua Tự Đức nhận làm con nuôi và giao cho bà Thiện Phi Nguyễn Thị Cẩm chăm sóc, dạy bảo.

Sau binh biến năm 1885, vua Hàm Nghi đã bỏ ngai vàng ra Tân Sở, triều đình Huế thương lượng với Pháp đưa Ưng Đường lên ngôi, đặt niên hiệu là Đồng Khánh. Ở ngôi vua được 3 năm, vua Đồng Khánh bị bệnh và mất vào ngày 27 tháng 12 năm Mậu Tí (28-1-1889) lúc được 25 tuổi. Sau khi mất, bài vị của vua Đồng Khánh được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu là Cảnh Tông Thuần Hoàng đế. Vua Đồng Khánh có 10 người con (6 người con trai, 4 người con gái).

2.10. Vua Thành Thái (1889-1907):

Vua Thành Thái tên thật là Nguyễn Phúc Bửu Lân, còn có tên là Chiêu, con thứ 7 của vua Dục Đức và bà Từ Minh Hoàng hậu (Phan Thị Điểu), sinh vào ngày 22 tháng 2 năm Kỷ Mão (14-3-1879).

Sau khi vua Đồng Khánh mất, triều đình Huế được sự đồng ý của Pháp đã đưa Bửu Lân lên ngôi vào ngày 1 tháng 2 năm 1889 với niên hiệu là Thành Thái, lúc mới 10 tuổi.

Vua Thành Thái là một  người có tư tưởng tiến bộ (ông cắt tóc ngắn, lái ô tô, xuồng máy) và có tư tưởng chống Pháp. Vì vậy, sau 19 năm ở ngôi, dưới áp lực của Pháp, triều đình Huế lấy cớ ông mắc bệnh tâm thần và buộc phải thoái vị. Sau đó, ông bị Pháp đưa đi an trí ở Vũng Tàu. Năm 1916, ông bị Pháp đem đi đày ở đảo Réunion (Châu Phi). Năm 1947, ông được trở về sống ở Sài Gòn cho đến khi mất. Ông mất vào ngày 9 tháng 3 năm 1955, hưởng thọ 77 tuổi.

Vua Thành Thái có 45 người con (19 con trai, 26 con gái).

2.11. Vua Duy Tân (1907-1916):

Vua Duy Tân tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh San, còn có tên khác là Hoảng, là con thứ 5 của vua Thành Thái và bà Nguyễn Thị Định, sinh ngày 26 tháng 8 năm Canh Tý (19-9-1900). Năm 1907, vua Thành Thái thoái vị, triều đình Huế đưa Hoàng tử Vĩnh San lên ngôi, ông lấy niên hiệu là Duy Tân lúc mới được 8 tuổi.

Vua Duy Tân là vị vua lên ngôi nhỏ tuổi nhất trong 13 vua nhà Nguyễn. Tuy nhiên nhà vua lại là người chững chạc, có khí phách của một bậc đế vương. Cũng như cha mình, vua Duy Tân là người có tư tưởng chống Pháp. Nhà vua đã cùng với Thái Phiên, Trần Cao Vân… vạch định cuộc nổi dậy chống Pháp vào ngày 3 tháng 5 năm 1916. Nhưng âm mưu bại lộ, nhà vua cùng Thái Phiên và Trần Cao Vân trốn ra khỏi Kinh Thành. 3 ngày sau, vua Duy Tân bị Pháp bắt và bị kết tội rồi đày sang đảo Réunion. Ông mất ngày 21 tháng 11 năm Ất Dậu (25-12-1945) trong một tai nạn máy bay khi được 46 tuổi. Ông được an táng tại nghĩa trang Thiên Chúa Giáo M’Baiki, thuộc Cộng Hòa Trung Phi. Ngày 6 tháng 4 năm 1987, nhà vua được cải táng trong khuôn viên của An Lăng (Lăng Dục Đức).
Vua Duy Tân có 5 người con (3 con trai, 2 con gái)

2.12. Vua Khải Định (1916-1925):

Vua Khải Định tên thật là Nguyễn Phúc Bửu Đảo, còn có tên khác là Tuấn, con trưởng của vua Đồng Khánh và bà Dương Thị Thục (Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu), sinh ngày 1 tháng 9 năm Ất Dậu (8-10-1885). Sau khi Vua Đồng Khánh mất, Hoàng tử Bửu Đảo còn ít tuổi (4 tuổi) nên không được chọn làm vua. Đến năm 1916, sau khi vua Duy Tân bị Pháp đưa đi đày ở Réunion, triều đình Huế và người Pháp mới lập Bửu Đảo lên ngôi vua vào ngày 18-5-1916, lấy niên hiệu là Khải Định. Vua Khải Định ở ngôi vua được 10 năm thì bị bệnh nặng và mất vào ngày 20 tháng 9 năm Ất Sửu (6-11-1925), hưởng thọ 41 tuổi.Sau khi chết, bài vị của ông được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu là Hoằng Tông Tuyên Hoàng đế. Vua Khải Định chỉ có một con trai là Hoàng tử Vĩnh Thụy (vua Bảo Đại).

2.13. Vua Bảo Đại (1926-1945):

Vua Bảo Đại tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, ngoài ra còn có tên là Thiển. Ông là người con độc nhất của vua Khải Định và bà Hoàng Thị Cúc (bà Từ Cung), sinh ngày 23 tháng 9 năm Quý Sửu (22-10-1913). Ông được đưa sang Pháp học lúc mới 10 tuổi, đến khi vua Khải Định qua đời, ông về Huế lên ngôi vua vào ngày 8 /1 /1926, lấy niên hiệu Bảo Đại, đây là vị vua cuối cùng của triều Nguyễn. Sau đó, ông lại tiếp tục sang Pháp học cho đến 8/9/1932 mới trở lại Huế.
Vua Bảo Đại ở ngôi vàng cho đến 30 /8 /1945 thì ông làm lễ thoái vị tại Ngọ Môn, giao chính quyền lại cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời.

Chế độ phong kiến chấm dứt, vua Bảo Đại sang Pháp và sống hết cuộc đời của vị vua lưu vong ở đó. Ông mất ngày 1/8 /1997 tại Pháp. Ông có 5 người con (2 con trai, 3 con gái).

3. Chính sách thống trị của nhà Nguyễn:

Dưới triều đại nhà Nguyễn, Vua chính là người trực tiếp điều hàng các công việc từ trung ương đến địa phương

Tổ chức quân đội ở triều Nguyễn bao gồm nhiều thứ quân, cụ thể bao gồm bộ binh, thủy binh, tượng binh…

Bộ luật Gia Long được ban hanh nhằm bảo vệ tuyệt đối quyền lực của nhà vua dưới triều Nguyễn.

Dưới triều Nguyễn, các vua ở không đặt ngôi hoàng hậu và bỏ chức tể tướng.

Vua Nguyễn tự mình trực tiếp điều hành mọi việc của đất nước từ trung ương đến địa phương.

4. Tổ chức quân đội của nhà Nguyễn:

Quân đội nhà Nguyễn bao gồm nhiều thứ quân điển hình như bộ binh, thủy binh hay tượng binh…).

Nhà Nguyễn cho xây dựng các thành trì vững chắc.

Đồng thời cho xây dựng các trạm ngựa nối liền từ cực Bắc đến cực Nam đất nước.

5. Những quan điểm về nhà Nguyễn thành lập:

Vương triều Nhà Nguyễn được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh tranh giành ngôi vị một cách kiên trì, bền bỉ của những người con thuộc dòng họ Nguyễn Phúc. Trước khi Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi, đất nước ta chia thành hai miền Nam – Bắc thường gọi là Đàng Trong và Đàng Ngoài. Ở Đàng Ngoài có vua Lê chúa Trịnh thống lĩnh, còn ở Đàng Trong có chúa Nguyễn cai trị.

Cuộc đấu tranh bắt đầu từ khi khi Trịnh Tráng đem quân đánh Nguyễn Phúc Nguyên năm 1627 và kết thúc vào cuối thế kỷ 18 khi nhà Tây Sơn đánh đổ cả chúa Nguyễn lẫn chúa Trịnh. Cả gia tộc chúa Nguyễn phải bỏ mạng, duy chỉ có một người hậu duệ mới 15 tuổi sống sót, chạy ra đảo Thổ Chu vào năm 1777. Đó chính là Nguyễn Phúc Ánh.

Ra đời trong bối cảnh vô cùng đặc biệt, vì vậy nhà Nguyễn đã trải qua rất nhiều biến cố trong khoảng thời gian tồn tại, mang nhiều thị phi như cầu viện ngoại bang để xây dựng lịch sử nhà nguyễn thành lập và duy trì thống trị đất nước; làm mất nước vào tay Pháp. Tuy vậy, chúng ta cũng cần nhìn nhận một cách công tâm về những giá trị mà nhà Nguyễn đã gây dựng, đặc biệt là trong việc mở mang bờ cõi, lãnh thổ quốc gia.

    5 / 5 ( 1 bình chọn )