Quy định về Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm Giai đoạn từ khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đến nay.
Trên cơ sở các văn kiện của Đảng và
Điều 26: Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm
Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật này, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật này quy định. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án.
Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.
Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
Nguyên tắc này là một trong những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật TTHS năm 2015, là định hướng cho việc xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật TTHS. Nội dung của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm được phân tích với các nội hàm sau:
Mục lục bài viết
1. Quy định về sự bình đẳng giữa các bên tham gia tranh tụng:
Trong quá trình giải quyết vụ án, các chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Bản chất của tranh tụng là sự tranh luận giữa bên buộc tội và bên gỡ tội dựa trên những tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án, làm cơ sở cho việc ra phán quyết cuối cùng của Tòa án. Do đó, khi thực hiện tranh tụng tại phiên tòa xét xử, một bên có quyền biết về lập luận, các chứng cứ của phía bên kia đồng thời đưa ra những chứng cứ, lập luận của mình để phản bác lại.
Trước đây, trong Bộ luật TTHS năm 2003 thì việc bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội chỉ được thể hiện tại giai đoạn xét xử, theo đó:
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Như vậy, so với Bộ luật TTHS năm 2003 thì tính tiến bộ của nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật TTHS năm 2015 đã được quy định rất cụ thể. Các chủ thể bên gỡ tội hoàn toàn bình đẳng với người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đại diện cho bên buộc tội.
Tính bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội thể hiện trong việc họ có quyền ngang nhau trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ và đưa ra yêu cầu đối với phía bên kia. Tòa án là chủ thể thực hiện chức năng xét xử giữ vai trò trọng tài bảo đảm cho tranh tụng được bình đẳng. Nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên buộc tội, bên bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô tội. Quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ hay đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án của bên buộc tội và bên gỡ tội được thực hiện xuyên suốt từ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố cho đến giai đoạn xét xử chứ không chỉ trong giai đoạn xét xử.
Tính bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ
Theo quy định tại Điều 86 Bộ luật TTHS năm 2015 thì Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.
Nếu như pháp luật quy định người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là chủ thể buộc tội khi tiến hành các hoạt động có quyền tự thu thập, quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ, đồ vật, dữ liệu điện tử … thì người bị buộc tội, người bào chữa cũng có quyền thu thập chứng cứ để phục vụ cho việc tham gia tố tụng của mình. Một trong các điều kiện quan trọng để bảo đảm nguyên tắc tranh tụng được thực hiện trong xét xử là bên buộc tội và bên gỡ tội phải thật sự bình đẳng với nhau, Tòa án phải đóng vai trò là trọng tài, thực sự trung lập, độc lập và khách quan đảm bảo cho hai bên công bằng, có các điều kiện như nhau khi thực hiện chức năng của mình mà trong đó quan trọng là bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đưa ra yêu cầu với mục đích làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Nguyên tắc tranh tụng đòi hỏi pháp luật TTHS phải bảo đảm cho các bên tranh tụng có đầy đủ các phương tiện cần thiết để thực hiện được chức năng của mình, phương tiện của hai bên phải tương xứng với nhau và phù hợp với mục đích thực hiện các chức năng của mình. Từ đó mới tạo ra cơ hội ngang bằng trong việc đưa ra chứng cứ, đưa ra yêu cầu giữa các bên tranh tụng trước HĐXX. Để tranh tụng có hiệu quả, các chủ thể tố tụng phải được bình đẳng với nhau trong việc tìm kiếm, thu thập các tài liệu, đồ vật, chứng cứ liên quan đến vụ án cũng như cung cấp các tài liệu, đồ vật đó cho cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đưa vào hồ sơ vụ án để Tòa án khi xét xử có cơ sở để xét xử vụ án khách quan, công bằng, đúng pháp luật.
Tính bình đẳng trong việc đánh giá chứng cứ
Xuất phát từ việc coi chứng cứ là căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết vụ án, do vậy việc đánh giá chứng cứ rất quan trọng. Nó phụ thuộc vào trình độ, nhận thức chủ quan của mỗi cá nhân người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hay người tham gia tố tụng. Quá trình đánh giá chứng cứ không chỉ các chủ thể bên buộc tội mà cả chủ thể bên gỡ tội đều phải có tinh thần đánh giá một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả các tình tiết của vụ án. Việc đánh giá chứng cứ giữa bên buộc tội và bên gỡ tội cũng phải bình đẳng.
Theo Bộ luật TTHS năm 2015 thì trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, những người tham gia tố tụng gồm người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền đánh giá chứng cứ thông qua việc trình bày ý kiến của mình về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan có trong hồ sơ vụ án. Người bào chữa có quyền đánh giá chứng cứ, kiểm tra chứng cứ và trình bày ý kiến của mình về chứng cứ, tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án. Bên buộc tội có trách nhiệm bảo đảm cho người bào chữa thực hiện các quyền của họ.
Tính bình đẳng trong việc đưa ra yêu cầu làm rõ sự thật khách quan của vụ án
Sự thật khách quan của vụ án là vấn đề trọng tâm cần hướng tới trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, do vậy họ có quyền đưa ra các yêu cầu đối với người bị buộc tội nhằm làm rõ các tình tiết của vụ án.
Tóm lại, trước đây, quyền bình đẳng trong việc đưa chứng cứ, đưa yêu cầu của các bên liên quan trong vụ án chỉ được thực hiện vào thời điểm tại phiên tòa. Theo quy định hiện nay, quyền này được mở rộng cả về phạm vi quyền, thời gian cũng như về chủ thể được hưởng quyền. Không chỉ là quyền đưa ra chứng cứ, yêu cầu mà pháp luật còn quy định các chủ thể được bình đẳng trong việc đánh giá chứng cứ; không chỉ giới hạn thời điểm thực hiện quyền chỉ tại phiên toà mà quyền bình đẳng trong việc đưa chứng cứ, yêu cầu, đánh giá chứng cứ được thực hiện trong suốt quá trình giải quyết vụ án; các chủ thể tranh tụng bao gồm điều tra viên, kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác. Nguyên tắc này là cụ thể hóa nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật trong TTHS. Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Họ phải được bình đẳng với nhau trong việc đưa ra chứng cứ và đánh giá chứng cứ để chứng minh sự thật khách quan của vụ án. Dựa vào chứng cứ của các bên đưa ra, Toà án mới có thể giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt kẻ phạm tội, không làm oan người vô tội.
Do đó, có thể thấy tranh tụng không chỉ tồn tại ở giai đoạn xét xử nơi mà có sự hiện diện đầy đủ của ba bên buộc tội, gỡ tội và xét xử, mà còn xuất hiện từ giai đoạn khởi tố vì để tiến hành được việc tranh tụng và tranh tụng có hiệu quả, các bên cần phải có thời gian và điều kiện cần thiết để thu thập các chứng cứ, tài liệu và các tình tiết của vụ án trước khi bước vào cuộc tranh tụng tại phiên tòa. Mặc dù Bộ luật TTHS năm 2015 không nêu rõ ai là chủ thể của bên buộc tội, chủ thể của bên gỡ tội nhưng những nội dung của điều luật thể hiện rõ bên buộc tội, bên bị buộc tội và bên xét xử trong TTHS.
Theo đó, bên buộc tội được hiểu sẽ bao gồm: Điều tra viên, Kiểm sát viên, những người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, đó là cán bộ điều tra trong cơ quan điều tra và các cơ quan khác có thẩm quyền tiến hành điều tra; KSV thuộc VKS; không bao gồm thư ký Tòa án và kiểm tra viên. Ngoài ra, bên buộc tội còn có thể kể đến người bị hại, nguyên đơn dân sự, người làm chứng khi có lời khai có tính chất buộc tội, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự. Bên gỡ tội gồm: người bị cáo buộc phạm tội (người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo); người bào chữa, bị đơn dân sự; người làm chứng khi có lời khai có tính chất gỡ tội.
Bên buộc tội và bên gỡ tội sẽ tranh tụng với nhau tại phiên tòa để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Để tạo sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội trong hoạt động tranh tụng thì Điều 26 Bộ luật TTHS quy định bên buộc tội và bên gỡ tội đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. “Đây là đặc điểm nổi trội của mô hình TTHS tranh tụng so với các mô hình TTHS khác; là biểu hiện của việc phát huy tối đa tinh thần dân chủ trong hoạt động tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng không bao giờ đứng trên và có ưu thế trội hơn bên gỡ tội, mà giữa họ có một vị thế ngang bằng nhau, Nhà nước và công dân đều có quyền và nghĩa vụ bình đẳng trong hoạt động tố tụng”. Để đảm bảo nguyên tắc tranh tụng được áp dụng hiệu quả trên thực tế, bên cạnh việc Bộ luật TTHS vẫn quy định quyền thu thập, đánh giá chứng cứ cho các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng buộc tội là chủ yếu như CQĐT hay VKS thì Điều 26 Bộ luật TTHS cũng đã lần đầu tiên quy định bị can, bị cáo, người bào chữa có quyền đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ do cơ quan tố tụng thu thập và yêu cầu Tòa án thu thập, bổ sung chứng cứ nếu đã yêu cầu ở giai đoạn điều tra, truy tố mà không được chấp nhận. Xét về lý luận cũng như trên thực tế, việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng có nghĩa là sự đối kháng nhau của các chủ thể có các chức năng khác nhau trong tố tụng. Chính vì vậy, trong tranh tụng không thể chỉ cho phép một chủ thể được đơn phương, độc quyền trong việc thu thập và đánh giá chứng cứ. Điều này là sự bảo đảm cho quá trình tranh tụng được bình đẳng và hiệu quả cao hơn. Vấn đề này đã được Bộ luật TTHS năm 2015 cụ thể hóa hơn trong các quy định về: quyền và nghĩa vụ của bị can (Điều 60), quyền và nghĩa vụ của bị cáo (Điều 61), quyền và nghĩa vụ của người bào chữa (Điều 73)…
Tuy nhiên, chính trong quy định này đã thể hiện rõ các bên chỉ có quyền bình đẳng trong việc “đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án” mà không quy định quyền bình đẳng trong việc “thu thập chứng cứ”. Việc thu thập chứng cứ là cơ sở, là vấn đề trọng tâm của quá trình chứng minh trong giải quyết vụ án hình sự, việc thu thập chứng cứ phải theo trình tự thủ tục do Bộ luật TTHS quy định.
“Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự” (khoản 2 Điều 87 Bộ luật TTHS năm 2015). Do đó, chỉ khi thu thập được chứng cứ một cách hợp pháp thì chủ thể tranh tụng mới có quyền đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ. Tuy nhiên, Bộ luật TTHS năm 2015 chỉ quy định các biện pháp điều tra, thu thập chứng cứ cho cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không quy định cụ thể, mở rộng các biện pháp thu thập chứng cứ cho người bào chữa ngoài biện pháp “gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên đến bào chữa” (khoản 2 Điều 88 Bộ luật TTHS năm 2015). Tức là, bên gỡ tội không có quyền áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ khác, do đó nếu xét về khía cạnh các chứng cứ thu thập được của bên buộc tội và bên gỡ tội để nói đến quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ của hai bên thì rõ ràng là không thể thực hiện được.
2. Quy định về việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ và tham gia phiên tòa:
Trong việc quy định nguyên tắc tranh tụng, vấn đề xác định chứng cứ là rất quan trọng. Bên cạnh việc quy định quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ của các bên trong quan hệ tranh tụng, Điều 26 Bộ luật TTHS năm 2015 còn quy định các chứng cứ do Viện kiểm sát đưa ra Tòa án để xét xử phải được đầy đủ, mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của BLHS để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và các tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Như vậy, điều này cũng cho thấy, hoạt động tranh tụng công khai tại phiên tòa là sự thể hiện tập trung nhất, cơ bản nhất của nguyên tắc tranh tụng. Bản chất của quá trình tranh tụng này là việc các bên đưa ra những trình bày, tranh luận để làm rõ các chứng cứ buộc tội và gỡ tội tại phiên tòa. Tòa án được trao cho nhiệm vụ, quyền hạn là trọng tài trong quá trình xác định việc đánh giá chứng cứ của cả hai bên buộc tội và gỡ tội.
Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử là kết quả của cả quá trình điều tra, truy tố, sẽ là cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn quan trọng để Tòa án khi xét xử đạt được mục đích là xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án phải đầy đủ và hợp pháp. Quy định này xác định trách nhiệm của CQĐT, cơ quan truy tố (Viện kiểm sát), khi thu thập chứng cứ phải thu thập cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, quá trình thu thập chứng cứ phải theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định, VKS phải tiến hành kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ của CQĐT. Theo quy định tại khoản 1 Điều 280 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định khi nghiên cứu hồ sơ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu xác định cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Tòa án không thể bổ sung tại phiên tòa hoặc trường hợp xác định có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra Quyết định trả hồ sơ cho VKS yêu cầu điều tra bổ sung.
Để đảm bảo nguyên tắc tranh tụng thì một vấn đề không thể không đề cập đó là việc tham gia phiên tòa của các bên tham gia tranh tụng. Chỉ khi các bên tranh tụng (bên buộc tội, bên gỡ tội) có mặt đầy đủ tại phiên tòa thì mới thực hiện được việc tranh tụng. Do đó, Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định “Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật này, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật này quy định”.
Cụ thể hóa nội dung của nguyên tắc này, tại các Điều 289; 290; 291; 292; 293; 294; 295; 296 của Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định chi tiết về sự có mặt của KSV, của bị cáo, người bào chữa, bị hại, người tham gia tố tụng khác, đồng thời quy định rõ các trường hợp phải hoãn phiên tòa tại Điều 297 Bộ luật này. Việc quy định phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định không chỉ đảm bảo thực hiện được nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, mà còn đảm bảo cho Tòa án xét xử vụ án một cách công bằng, khách quan, xác định đúng sự thật của vụ án, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đặc biệt, từ trước đến nay chưa từng xảy ra, chưa từng có trong các Bộ luật TTHS trước đó khi triệu tập điều tra viên đến phiên tòa. Thực tế đã chỉ ra, những oan sai trong TTHS xảy ra trong nhiều năm vừa qua bắt nguồn đầu tiên từ những việc làm của Điều tra viên liên quan đến quá trình thu thập chứng cứ buộc tội không khách quan, vi phạm pháp luật. Do vậy, để xác định tính hợp pháp của quá trình thu thập chứng cứ, việc Tòa án triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa xét xử để họ trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án là hết sức cần thiết, quan trọng, thể hiện tính công bằng trong TTHS liên quan đến không chỉ bên bị buộc tội là bị cáo phải có mặt tại phiên tòa xét xử, mà còn bên buộc tội là điều tra viên phải trình bày trước phiên tòa về những việc làm của mình trong quá trình điều tra vụ án.
Đồng thời, “Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án”. Nguyên tắc này xác định rõ trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Các chủ thể có quyền tranh tụng phải được Tòa án triệu tập đầy đủ để tham gia phiên toà xét xử; Tòa án chỉ xét xử vắng mặt họ trong trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan, hoặc trường hợp khác do Bộ luật này quy định; Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án. Để thực hiện được nội dung này, Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định cụ thể trách nhiệm của Tòa án (cụ thể là Hội đồng xét xử) tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự như quy định về phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, HĐXX phải giải thích quyền và nghĩa vụ cho người tham gia tố tụng, quy định tại phần thủ tục tranh tụng tại phiên tòa, về trình tự xét hỏi, trình tự phát biểu khi tranh luận. Đặc biệt quy định trách nhiệm của kiểm sát viên “phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa”; “Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác”; trách nhiệm của Chủ tọa phiên tòa là “không được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị hại, người tham gia tố tụng khác tranh luận, trình bày hết ý kiến nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án và ý kiến lặp lại. Chủ tọa phiên tòa yêu cầu Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến của người bào chữa, người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận” (Điều 322 Bộ luật TTHS năm 2015). Quy định này nhằm đảm bảo nguyên tắc tranh tụng được thực thi trong suốt phiên tòa xét xử vụ án hình sự, là sự luật hóa chủ trương của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã nêu rõ “Nâng cao chất lượng công tổ của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác ..” và Nghị quyết số 37/NQ-QH13 ngày 23 tháng 11 năm 2012 của Quốc hội khoá XIII tiếp tục đã khẳng định: “Kiểm sát viên phải chủ động, tích cực tranh luận, đối đáp tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự Toà án nhân dân tối cao chỉ đạo các Toà án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên toà”, đồng thời nhằm khắc phục tình trạng tại một số phiên tòa KSV không tích cực tranh luận với ý kiến của bị cáo, của người bào chữa, của người tham gia tố tụng khác, thậm chí có tình trạng KSV không đưa ra ý kiến tranh luận mà bảo lưu điểm.
Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.
Có thể nói, trong phiên tòa xét xử vụ án hình sự thì hoạt động kiểm tra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, sử dụng chứng cứ là một vấn đề hết sức quan trọng. Cơ sở để chứng minh có hay không có hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố hoàn toàn phụ thuộc vào nhận định khách quan của HĐXX, để đưa ra nhận định khách quan thì mọi chứng cứ cần được công khai, làm rõ tại phiên tòa. Do đó, có thể thấy rằng tại phiên tòa, việc kiểm tra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, sử dụng chứng cứ được thực hiện công khai nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Thông qua việc công khai chứng cứ để làm rõ bản chất của vụ án. Trên cơ sở đó để làm rõ các yêu cầu đặt ra trong quá trình giải quyết vụ án hình sự như có sự việc phạm tội xảy ra hay không? Ai là người thực hiện tội phạm? Lỗi, năng lực trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi phạm tội? Thời gian, không gian, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.
Để cụ thể hóa nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”, Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định chế định tranh tụng tại Mục V (Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa) chương XXI (Xét xử sơ thẩm) (từ Điều 306 đến Điều 325), trong đó quy định cụ thể về tranh luận tại phiên tòa:
Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với Kiểm sát viên về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền đưa ra đề nghị của mình (Khoản 1 Điều 322).
Bộ luật cũng quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của KSV trong tranh tụng tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự:
Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác (Khoản 2 Điều 322).
Điều này cũng đã được quy định trong
Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình trong việc thực hành quyền công tố, tranh tụng tại phiên tòa và kiểm sát hoạt động tư pháp (Khoản 1 Điều 83).
Bên cạnh đó, để bảo đảm chất lượng tranh tụng và việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia trong tranh tụng, Bộ luật TTHS 2015 còn quy định:
Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị hại, người tham gia tố tụng khác tranh luận, trình bày hết ý kiến nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án và ý kiến lặp lại. Chủ tọa phiên tòa yêu cầu Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến của người bào chữa, người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận (Khoản 3 Điều 322) và Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản án (Khoản 4 Điều 322).
Tuy nhiên, quy định này tại Điều 26 Bộ luật TTHS năm 2015 phần nào có nội dung rườm rà, không điển hình nội dung nguyên tắc tranh tụng, các vấn đề được liệt kê thực chất là những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự được quy định tại Điều 85 của Bộ luật TTHS năm 2015 mà các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong từng giai đoạn tố tụng tương ứng có nghĩa vụ phải chứng minh để giải quyết vụ án một cách đầy đủ nhất. Ngoài ra, những vấn đề như: Mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng lại không phải có trong tất cả các vụ án hình sự, trong khi đó yêu cầu của một nguyên tắc trong TTHS phải là những tư tưởng chủ đạo và định hướng cho hoạt động TTHS, tồn tại khách quan và chi phối toàn bộ quá trình tố tụng.
3. Quy định về bản án, quyết định của Tòa án:
Điều 26 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định “Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”.
Đây là thể hiện cụ thể hóa yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp trong thời gian qua của Đảng và Nhà nước ta đã được thể hiện cụ thể trong các Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 của Đảng. Việc tranh tụng chỉ là hình thức nếu kết quả tranh tụng không được thể hiện trong bản án, quyết định của Tòa án. Đây là một trong những điểm mới, tiến bộ được ghi nhận trong Bộ luật TTHS năm 2015, đã thể chế hóa chủ trương của Đảng lấy kết quả tranh tụng tại phiên tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp”.
Như vậy, tranh tụng trong xét xử là nguyên tắc cơ bản mà Tòa án cần phải bảo đảm thực hiện. Có tranh tụng bình đẳng, có công khai chứng cứ tại phiên tòa thì Tòa án mới có những nhận định khách quan để đưa ra những phán quyết phù hợp với quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, các bên thực hiện chức năng tranh tụng của mình thông qua việc xét hỏi, tranh luận và đối đáp để làm rõ những tình tiết của vụ án. Tòa án thực hiện chức năng trọng tài, đứng giữa hai bên thì phải có thái độ khách quan, vô tư và công minh; HĐXX không thể bị ràng buộc bởi các yêu cầu, đề nghị của các bên, không được biểu lộ chính kiến của mình về những vấn đề thuộc nội dung vụ án cũng như kết luận về các chứng cứ đang được xem xét tại phiên tòa. Thông qua quá trình tranh tụng để kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của các chứng cứ, kiểm tra đánh giá chứng cứ cũng như các quyết định, hành vi tố tụng của CQĐT, VKS có trong hồ sơ vụ án nhằm hạn chế các vi phạm tố tụng hoặc sai lầm khác. Tòa án với vai trò là trọng tài, kiểm tra đánh giá các chứng cứ một cách đầy đủ, khách quan, toàn diện thông qua xét hỏi, qua quá trình tranh luận, đối đáp của các bên tranh tụng; từ đó đưa ra phán quyết nghiêm minh, công bằng, đúng pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội. Có thể nói, việc bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa là căn cứ ra bản án, quyết định của Tòa án.
Do vậy, trong bản án của Tòa án được đưa ra sau khi xét xử phải thể hiện được đầy đủ:
Ý kiến của người bào chữa, bị hại, đương sự, người khác tham gia phiên tòa được Tòa án triệu tập;
– Nhận định của HĐXX phải phân tích những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội, xác định bị cáo có tội hay không và nếu bị cáo có tội thì là tội gì, theo điểm, khoản, điều nào của Bộ luật hình sự và của văn bản quy phạm pháp luật khác được áp dụng, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và cần phải xử lý như thế nào.
– Nếu bị cáo không có tội thì bản án phải ghi rõ những căn cứ xác định bị cáo không có tội và việc giải quyết khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật.
– Trong trường hợp HĐXX không chấp nhận những chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, yêu cầu, đề nghị của KSV, bị cáo, người bào chữa, bị hại, đương sự và người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ đưa ra thì phải phân tích lý do, phân tích tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, KSV, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử (Điều 260 Bộ luật TTHS), chứ không thể tùy tiện đưa ra các quyết định trong bản án mà không dựa vào, bỏ qua kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
Mặc dù không hoàn toàn dựa vào kết quả tranh tụng như mô hình tố tụng tranh tụng, nhưng việc quy định bản án, quyết định của Tòa án phải dựa vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa là một trong những điểm mới nổi bật trong quy định về nguyên tắc tranh tụng của Bộ luật TTHS năm 2015. Điều này cũng cho thấy mô hình TTHS Việt Nam ngày càng thể hiện rõ nét các đặc điểm của mô hình tố tụng kết hợp giữa thẩm vấn và tranh tụng.