Trong quan hệ dân sự, tôn trọng quyền tự do và định đoạt là nguyên tắc cơ bản được pháp luật đề cao. Bài viết dưới đây Luật Dương Gia sẽ làm rõ nguyên tắc tự định đoạt là gì? Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự được pháp luật quy định như thế nào?
Mục lục bài viết
- 1 1. Nguyên tắc quyền tự định đoạt là gì?
- 2 2. Cơ sở của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự:
- 3 3. Nội dung của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự:
- 4 4. Ý nghĩa quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự:
- 5 5. Một số bất cập trong thực tiễn về quyền tự định đoạt của đương sự:
1. Nguyên tắc quyền tự định đoạt là gì?
Nguyên tắc là toàn bộ các quan điểm, hệ thống tư tưởng xuyên suốt toàn bộ quá trình hoặc một giai đoạn nhất định đoi hỏi các tổ chức và cá nhân phải tuân thủ.
Quyền tự định đoạt của đương sự là quyền được tự do bày tỏ quan điểm, ý chí và nguyện vọng của mình trong quá trình tố tụng dân sự. Đó có thể là quyền khởi kiện, bổ sung hoặc thay đổi, rút yêu cầu khởi kiện hoặc yêu cầu giải quyết, tự thỏa thuận hòa giải với đương sự hoặc các vấn đề khác có liên quan.
Có thể hiểu nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự, theo đó, các đương sự được quyền tự do thể hiện ý chí của mình trong việc lựa chọn thực hiện các hành vi tố tụng hoặc lựa chọn pháp lý nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, quyết định quyền, lợi ích của mình trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và trách nhiệm của
Bản chất của quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự thể hiện ở những mặt sau:
- Quyền tự định đoạt của đương sự là các quyền được quy định trong các quy phạm pháp luật hình thức, có nguồn gốc từ các quyền dân sự (theo nghĩa rộng) được pháp luật tôn trọng và thừa nhận;
- Quyền tự định đoạt của các đương sự trong tố tụng dân sự thể hiện tính chất các quan hệ dân sự diễn ra trong đời sống của xã hội nói chung. Mà bản chất của các hành vi đó được xác lập trên cơ sở tự do, ý chí, tự nguyện, cam kết, thỏa thuận và bình đẳng.
- Quyền tự định đoạt của đương sự là một trong những nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt trong các giai đoạn của hoạt động tố tụng dân sự, được các chủ thể tham gia trong quá trình tố tụng dân sự và các chủ thể có thẩm quyền tôn trọng và bảo vệ.
2. Cơ sở của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự:
Cơ sở lý luận
Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự có quan hệ mật thiết với quyền tự định đoạt của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng. Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự xuất phát từ quyền tự định đoạt của các chủ thể trong quan hệ pháp luật nội dung.
Quyền tự định đoạt của đương sự xuất phát từ quyền dân sự, chính trị cơ bản của công dân được cộng đồng quốc tế và các văn bản pháp luật của Việt Nam công nhận và bảo vệ. Việc ghi nhận quyền tự định đoạt này của đương sự góp phần đảm bảo hội nhập quốc tế và nội luật hóa các Công ước, Nghị định thư cùng một số văn bản cam kết quốc tế mà nước ta đã gia nhập hoặc là thành viên.
Cơ sở thực tiễn
Xã hội ngày càng phát triển, các mối quan hệ dân sự xảy ra ngày càng nhiều và diễn ra với tính chất phức tạp, liên quan đến nhiều vấn đề pháp lý và không thể tránh khỏi mâu thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp là một nhu cầu tất yếu và giải quyết tại
Như vậy khi áp dụng thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự cần hiểu về quyền tự định đoạt đã được cụ thể hóa trong nguyên tắc của pháp luật tố tụng dụng dân sự đồng thời nguyên tắc này xây dựng trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nhất định.
3. Nội dung của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự:
Tại Điều 5
‘Điều 5. Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự
1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội.’
Về nội dung của nguyên tắc có thể hiểu như sau:
- Thứ nhất, đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện hay không khởi kiện, việc thỏa thuận dân sự với nhau để tự giải quyết, hòa giải tại cơ sở hay đưa ra cơ quan có thẩm quyền để giải quyết vụ việc;
- Thứ hai, Tòa án chỉ thụ lý và giải quyết vụ việc dân sự khi có yêu cầu từ phía đương sự, chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. Mục đích nhằm đảm bảo quyền tự định đoạt của chủ thể, do không giải quyết được với nhau nên đương sự mới yêu cầu Tòa giải quyết, chỉ giới hạn trong phạm vi nhất định.
- Thứ ba, mặc dù Tòa án đã thụ lý đơn và đã hoặc chưa giải quyết, thế nhưng đương sự cũng không bị mất quyền định đoạt. Chấm dứt, thay đổi hoặc thỏa thuận dân sự với nhau một cách tự nguyện và thiện chí, không vi phạm điều cấm và không trái đạo đức xã hội thì sẽ được Tòa án công nhận và được pháp luật bảo vệ.
4. Ý nghĩa quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự:
- Ý nghĩa về mặt xã hội:
Quyền định đoạt của các đương sự trong tố tụng dân sự là sự phản ánh quyền tự định đoạt của đương sự trong quan hệ pháp luật dân sự (theo nghĩa rộng). Trước khi bắt đầu tham gia vào mối quan hệ dân sự, các chủ thể hoàn toàn có quyền tìm hiểu các thông tin pháp lý về giao dịch trước khi thực hiện quan hệ dân sự, đồng ý hoặc không đồng ý với các nội dung mà bên còn lại đưa ra để đảm bảo quyền lợi và thực hiện nghĩa vụ. Khi có phát sinh tranh chấp thì các bên sẽ tự thống nhất ý chí, thể hiện ở việc: tuân thủ điều khoản đã thỏa thuận trong các văn bản giao kết, hoặc gửi đơn ra các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu giải quyết.
Kể cả khi các bên đương sự đã đưa ra cơ quan có thẩm quyền yêu cầu giải quyết, ví dụ như
- Ý nghĩa về mặt kinh tế:
Việc các bên đương sự tự định đoạt với nhau về vấn đề giải quyết vụ việc dân sự sẽ góp phần giảm bớt áp lực giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án, cũng như các cơ quan có liên quan trong việc phát hiện và thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ. Qua đó góp phần giảm thiểu các số tiền phải chi, ví dụ tiền tạm ứng án phí dân sự, tiền tổ chức để giám định, định giá tài sản, …..góp phần giải quyết nhanh chóng, rút ngắn thời gian và công sức của các bên.
Với việc quy định quyền tự quyết định của đương sự trong việc lựa chọn phương thức bảo vệ quyền lợi của mình, quyền có thể hòa giải hoặc có thể tự định đoạt khi đã đưa vụ việc kiện ra Tòa án giải quyết về phương diện pháp lý đã tạo điều kiện cho đương sự có thể tìm cho mình một phương thức để giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất, phù hợp với ý chí của cả hai bên, tiến đến việc thực hiện theo thỏa thuận sẽ dễ dàng thi hành hơn việc có bản án, quyết định của Tòa án hoặc cưỡng chế thi hành từ phía cơ quan có thẩm quyền.
5. Một số bất cập trong thực tiễn về quyền tự định đoạt của đương sự:
Thực tế do đương sự thiếu hiểu biết hoặc không hiểu biết đầy đủ về quyền dân sự của mình nên không biết hoặc không sử dụng hết quyền tự định đoạt của mình. Mặt khác, khi cơ quan tiến hành tố tụng hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiến hành giải quyết vụ việc cũng chưa phổ biến, phổ cập kiến thức thực tế cho nhiều đương sự, chưa thực sự đảm bảo quyền và tạo điều kiện cho đương sự thực hiện quyền của mình; việc trả lại đơn khởi kiện/ đơn yêu cầu, việc đình chỉ giải quyết vụ án còn nhiều bỏ ngỏ; các yêu cầu trong đơn của đương sự chưa được giải quyết hết hoặc xem xét, giải quyết vượt quá các yêu cầu; giải quyết các yêu cầu còn nhiều bất cập, gò bó, cưỡng ép, ….
Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng này có thể là:
- Hệ thống pháp luật còn nhiều thiếu sót và chưa thống nhất giữa các quy định tại các văn bản pháp luật khác nhau;
- Chúng ta chưa coi trọng việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật dân sự tới đại đa số người dân, dẫn đến việc người dân biết và hiểu để áp dụng quy định pháp luật còn thiếu và yếu. Nhiều người tiến hành tố tụng về trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa vững vàng, chưa có nhiều ý thức trong việc phổ cập, phổ biến giáo dục pháp luật và áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự trong thủ tục tố tụng dân sự.
Kết luận: Quyền tự định đoạt của đương sự là một trong các quyền cơ bản của công dân, được pháp luật quốc tế tôn trọng và được nội luật hóa trong các quy định của pháp luật Việt Nam. Để tiến hành đồng bộ đi vào thực tế thì cần nỗ lực của nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật, cũng như việc áp dụng pháp luật thực tế.