Sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên khoáng sản xảy ra khi tài nguyên được tiêu thụ với tốc độ nhanh hơn tốc độ thay thế. Dưới đây là bài viết về Nguyên nhân làm cạn kiệt nhanh chóng nguồn tài nguyên khoáng sản nước ta.
Mục lục bài viết
1. Cạn kiệt nguồn tài nguyên khoáng sản là gì?
Cạn kiệt nguồn tài nguyên khoáng sản là tình trạng khi các nguồn tài nguyên khoáng sản như vàng, bạc, đồng, than đá, dầu mỏ, và các khoáng sản khác bị khai thác hoặc sử dụng với tốc độ nhanh hơn khả năng tái tạo hoặc thay thế của chúng. Điều này dẫn đến việc không còn đủ tài nguyên khoáng sản để đáp ứng nhu cầu của con người hoặc ảnh hưởng xấu đến môi trường và hệ sinh thái.
2. Nguyên nhân lịch sử làm cạn kiệt nhanh chóng nguồn tài nguyên khoáng sản nước ta:
2.1. Khai thác quá mức tài nguyên khoáng sản:
Theo kết quả điều tra, đánh giá và thăm dò khoáng sản, Việt Nam có tài nguyên khoáng sản khá đa dạng và phong phú với trên 5.000 mỏ, điểm quặng của 60 loại khoáng sản khác nhau; Có một số loại khoáng sản có quy mô trữ lượng lớn, tầm cỡ thế giới, có ý nghĩa chiến lược và là nguồn lực để phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Khai thác quá mức tài nguyên khoáng sản là một trong những nguyên nhân chính gây cạn kiệt tài nguyên ở Việt Nam. Nhu cầu về tài nguyên khoáng sản ngày càng tăng nhanh do quá trình công nghiệp hóa và tăng trưởng kinh tế của đất nước. Điều này đã dẫn đến tình trạng khai thác khoáng sản vượt quá tốc độ bổ sung dẫn đến cạn kiệt. Việc khai thác quá mức tài nguyên khoáng sản cũng dẫn đến suy thoái đất, ô nhiễm nguồn nước và các vấn đề môi trường khác.
Việt Nam đã và đang phụ thuộc rất nhiều vào lĩnh vực khai khoáng như một nguồn thu nhập chính. Điều này dẫn đến tình trạng khai thác tài nguyên khoáng sản quá mức, nhiều công ty hoạt động vượt công suất, dẫn đến suy thoái môi trường. Ví dụ, việc khai thác vàng trái phép ở khu vực Tây Nguyên đã dẫn đến xói mòn đất, phá rừng và ô nhiễm nguồn nước. Tương tự, việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên đã dẫn đến hậu quả là hàng ngàn hecta rừng bị tàn phá, mất đa dạng sinh học và ô nhiễm nguồn nước.
2.2. Quản trị yếu kém:
Quản trị yếu kém là những yếu tố quan trọng góp phần làm cạn kiệt nguồn tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam. Lĩnh vực khai thác mỏ ở Việt Nam đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng dẫn đến khai thác bất hợp pháp, quản lý kém tài nguyên và các sai phạm khác.
Sự thiếu minh bạch trong lĩnh vực khai khoáng đã gây khó khăn cho việc giám sát và kiểm soát việc khai thác tài nguyên khoáng sản. Kết quả là, một số công ty đã tham gia khai thác khoáng sản mà không tuân theo các quy định cần thiết về môi trường. Ngoài ra, quản lý yếu kém đã góp phần làm suy thoái môi trường, do một số công ty khai thác mỏ không chịu trách nhiệm về hành động của mình. Cụ thể số lượng giấy phép hoạt động khoáng sản khá lớn, trong khi Nhà nước và lực lượng quản lý khoáng sản còn ít, công tác kiểm tra, thanh tra sau cấp phép chưa đáp ứng yêu cầu quản lý và xử phạt vi phạm hành chính. Vi phạm pháp luật chưa đủ mạnh…
2.3. Các quy định về môi trường chưa phù hợp:
Các quy định về môi trường chưa phù hợp là một yếu tố quan trọng khác góp phần làm cạn kiệt tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam. Việc thiếu các quy định phù hợp đã cho phép các công ty khai thác khoáng sản khai thác khoáng sản mà không tính đến các tác động môi trường từ hành động của họ.
Chính phủ gần đây đã đưa ra các quy định nhằm giảm tác động môi trường của việc khai thác mỏ. Ví dụ, Luật Khoáng sản 2010 và Luật Bảo vệ Môi trường 2014 nhằm điều chỉnh các hoạt động khai thác khoáng sản và đảm bảo rằng các tác động môi trường được xem xét trước khi cấp phép khai thác. Tuy nhiên, việc thực hiện các quy định này còn chậm và một số công ty khai thác mỏ vẫn tiếp tục hoạt động mà không tuân theo các quy định cần thiết về môi trường.
2.4. Sử dụng bừa bãi tài nguyên thiên nhiên khoáng sản:
Hiện đại hóa và công nghiệp hóa ngày càng cần nhiều nguyên liệu hơn dẫn đến việc sử dụng bừa bãi tài nguyên thiên nhiên khoáng sản. Các khoáng sản cạn kiệt bao gồm quặng sắt, than đá, bauxite và kali. Và đây là những tài nguyên thiên nhiên không tái tạo.
Ngoài ra Do dân số tăng lên, cần có nhiên liệu cho một số mục đích và khoáng chất để tồn tại. Kết quả là, rất nhiều hoạt động khai thác đang diễn ra. Tuy nhiên, dầu mỏ và khoáng sản là nguồn tài nguyên thiên nhiên không thể tái tạo, và sự cạn kiệt của chúng sẽ dẫn chúng ta đến những thiệt hại nghiêm trọng trong tương lai.
Những tài nguyên này cần hàng triệu năm để hình thành và với tốc độ chúng ta đang sử dụng nhiên liệu hóa thạch và khoáng chất, một ngày không xa chúng ta sẽ phải đối mặt với sự khan hiếm của những thứ này.
2.5. Do yếu tố lịch sử:
Việt Nam trải qua hàng chục năm nằm dưới sự thống trị của thực dân Pháp cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự cạn kệt của tài nguyên khoáng sản ở nước ta. Thực dân Pháp tiến hành những chính sách khai thác thuộc địa bóc lột tận cùng những tài nguyên khoáng sản ở nước ta để phục vụ cho nhu cầu phát triển ngành công nghiệp trong nước mình.
Tóm lại, cạn kiệt tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam là một vấn đề phức tạp đòi hỏi phải có giải pháp tổng hợp nhiều mặt. Khai thác quá mức, quản lý yếu kém, tham nhũng và các quy định pháp luật về môi trường chưa đầy đủ là một số yếu tố góp phần làm cạn kiệt nguồn tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam. Để giải quyết vấn đề này, chính phủ cần củng cố khung pháp lý và thực thi các quy định về môi trường. Ngoài ra, cần phải giảm sự phụ thuộc của đất nước vào lĩnh vực khai khoáng và đa dạng hóa nền kinh tế để giảm áp lực đối với tài nguyên khoáng sản.
3. Hiện trạng tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam:
Quặng bauxit: Quặng bauxit ở Việt Nam phân bố chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc (Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang), Tây Nguyên (Đăk Nông, Lâm Đồng, Gia Lai, Kon Tum) và các tỉnh Bình Phước, Phú Yên. Yên. Trữ lượng và tài nguyên dự báo quặng bôxit các tỉnh phía Bắc khoảng 88,5 triệu tấn. Đối với quặng bauxite laterit, tổng trữ lượng và tài nguyên dự báo quặng bauxite-laterit đã được ước tính khoảng 3.500 triệu tấn quặng tinh.
Đất hiếm: Quặng đất hiếm tập trung ở các mỏ Bắc Nậm Xe, Nậm Nậm Xe, Đông Pao (Lai Châu), Mường Hum (Lào Cai), Yên Phú (Yên Bái). Theo thống kê, trữ lượng và tài nguyên đất hiếm ở Việt Nam đạt khoảng 19,96 tấn Tr2O3.
Apatit: Đến nay đã xác định được 17 mỏ và điểm quặng apatit, tập trung chủ yếu ở tỉnh Lào Cai. Hầu hết các mỏ apatit đều có quy mô từ trung bình đến lớn. Trữ lượng và tài nguyên dự báo quặng apatit tính đến độ sâu – 900m là 2.373,97 triệu tấn.
Cát trắng: Cát trắng phân bố ở 09 tỉnh ven biển Bắc Bộ và Trung Bộ, có nhiều tiềm năng nhưng mức độ điều tra, đánh giá còn hạn chế. Tổng trữ lượng của 13 mỏ đã thăm dò là 123 triệu tấn, tài nguyên dự báo khoảng 03 tỷ tấn.
Đá vôi chất lượng cao (trừ đá hoa trắng): Đá vôi đáp ứng yêu cầu sản xuất xi măng, vôi công nghiệp và xút có mặt ở 29 tỉnh thành trong cả nước nhưng phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Hiện nay, có hơn 80 mỏ đã được điều tra, đánh giá và thăm dò ở các cấp độ khác nhau với tổng trữ lượng khoảng 08 tỷ tấn.
Đá hoa trắng: Phân bố ở 11 tỉnh phía Bắc, nhưng tập trung ở Nghệ An và Yên Bái. Tính đến nay, có hơn 70 mỏ đã được thăm dò. Khoảng 200 triệu m3 đá hoa trắng đã được xác định đủ điều kiện sản xuất đá ốp lát và 1,2 tỷ tấn đủ chất lượng để sản xuất bột canxi cacbonat.
Nước khoáng – nước nóng: Hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước đều có nước khoáng – nước nóng. Đến nay đã điều tra, ghi nhận 400 nguồn nước khoáng – nước nóng.
Quặng urani: Kết quả nghiên cứu địa chất và thăm dò khoáng sản đã phát hiện khoáng hóa urani ở khu vực Tây Bắc,
Than: Than phân bố chủ yếu ở bể than Đông Bắc và bể than Sông Hồng. Ngoài trữ lượng than đã khai thác, nếu không tính than bể sông Hồng thì trữ lượng và tài nguyên còn lại không lớn (khoảng 5 tỷ tấn kể cả tài nguyên dự báo).
Về bể than Sông Hồng, hiện đang điều tra, đánh giá tổng thể tiềm năng than của khu đất. Kết quả ban đầu cho thấy, tiềm năng than trong đất liền bể sông Hồng rất lớn, mật độ chứa than cao từ -330 đến -1200m. Phạm vi phân bố từ Khoái Châu Hưng Yên đến Tiền Hải, Thái Bình – Hải Hậu Nam Định. Kết quả sơ bộ đã xác định được loại than có chất lượng tốt để sử dụng làm than năng lượng.
Ngoài ra, nước ta còn một số khoáng sản kim loại khác như quặng đồng, quặng sắt, mangan, antimon, thủy ngân, molipđen, fenspat, cao lanh, sét kalin làm nguyên liệu gốm sứ, đá ốp lát… tài nguyên nhưng tài nguyên các loại khoáng sản này không lớn, phân tán