Có thể nói nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự không chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý mà còn có ý nghĩa trên thực tế, nguồn chứng cứ được xem là nơi để cung cấp những tình tiết, tài liệu quan trọng. Vậy để hiểu thêm về Nguồn chứng cứ là gì? Nguồn chứng cứ trong tố tụng dân
Mục lục bài viết
1. Nguồn chứng cứ là gì?
Đầu tiên để có thể hiểu về nguồn chứng cứ ta cần hiểu chứng cứ là gì, Căn cứ dựa trên quy định của pháp luật thì chứng cứ được quy định tại điều 93
“Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp”.
Ngoài ra căn cứ dựa trên điều 94
2. Nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự:
Theo quy định tại Điều 94. Nguồn chứng cứ
Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
1. Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
2. Vật chứng.
3. Lời khai của đương sự.
4. Lời khai của người làm chứng.
5. Kết luận giám định.
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
7. Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản.
8. Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập.
9. Văn bản công chứng, chứng thực.
10. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
Như vậy, dựa vào quy định đưa ra như trên đây so với bộ luật dân sự trước đó thì Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đã bổ sung thêm một nguồn chứng chứng cứ rất quan trọng là văn bản công chứng, chứng thực mà trước đây chưa được coi là nguồn chứng cứ chính thức mà thường phải xác định thông qua các nguồn chứng cứ khác. Đồng thời, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 lần này đã loại bỏ nguồn chứng cứ là tập quán đó là một quy định trước đây đã gây rất nhiều tranh cãi và không phải bất kỳ nguồn chứng cứ nào cũng được xác định là chứng cứ mà các nguồn chứng cứ phải đáp ứng được các điều kiện riêng quy định tại Điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Căn cứ dựa trên quy định tại Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định cụ thể thì nguồn chứng cứ bao gồm các nguồn đó là tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử; Vật chứng; Lời khai của đương sự; Lời khai của người làm chứng; Kết luận giám định; Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản; Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập; Văn bản công chứng, chứng thực; Các nguồn khác mà pháp luật có quy định. Theo quy định tại Điều 95Bộ luật tố tụng dân sự và Khoản 2 Điều 3
3. Xác định nguồn chứng cứ:
Thứ nhất, dựa trên khoản 1 điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định đối với loại nguồn chứng cứ là tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được khi có chứa đựng chứng cứ của vụ án; nếu là tài liệu đọc được nội dung thì phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền cung cấp, xác nhận; nếu là loại tài liệu nghe được, nhìn được (như băng đĩa ghi âm, ghi hình) thì phải xuất trình được văn bản xác nhạn về xuất xứ của các tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, ghi hình đó; có như vậy thì tài liệu đó mới được coi là có giá tri và được sử dụng làm chứng cứ chứng minh trong vụ án.
Thứ hai, dựa trên khoản 2 điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định đối với loại nguồn chứng cứ là vật chứng: vật chứng được pháp luật quy định là nguồn chứng cứ vì tồn tại trong chính bản thân nó là chứng cứ của vụ án, nó chỉ chứa đựng chứng cứ chứ nó không phải là chứng cứ.
Thứ ba, dựa trên khoản 3,4 điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định đối với lời khai của đương sự theo quy định của pháp luật, người làm chứng, kết luận giám định, biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ, kết quả định giá tài sản nếu được tiến hành đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật đề ra và cần phải đảm bảo ba thuộc tính của chứng cứ thì sẽ được coi là chứng cứ và được sử dụng để giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án.
Như vậy từ những phân tích ở trên chúng ta có thể thấy rằng nguồn chứng cứ được chia ra thành người, vật, tài liệu mang các thông tin về vụ việc dân sự. Việc phân biệt các nguồn chứng cứ có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định giá trị chứng minh của mỗi loại chứng cứ. Thông thường, các chứng cứ được rút ra từ các vật, tài liệu thì việc nghiên cứu, đánh giá không mấy phức tạp vì chúng ít bị chi phối bởi ngoại cảnh. Đối với những chứng cứ rút ra từ con người như đương sự, người làm chứng việc nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chúng rất phức tạp. Nét chung nhất của con người với nghĩa là nguồn chứng cứ bị chi phối rất lớn bởi yếu tố lợi ích, tâm lí, khả năng nhận thức, nhớ và phản ánh lại những gì họ thấy, sự quan tâm của họ với sự kiện,… Tất cả những yếu tố này đều phải tính đến khi nghiên cứu, đánh giá và sử dụng các chứng cứ rút ra từ đương sự, người làm chứng.
Ngoài ra khi so sánh giữa quy định của bộ luật tố tụng dân sự 2015 và 2004 có thể nhận ra quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, thì
Đối với nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử trong các trường hợp cụ thể các dữ liệu này dưới dạng là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử. Bản thân dữ liệu điện tử thì trước đó cũng đã được xem xét như là các nguồn chứng cứ, đặc biệt trong các
+ Thuộc tính đầu tiên đó là tính khách quan của dữ liệu điện tử phải chứa đựng những thông tin có thật, tồn tại một cách khách quan. Dữ liệu điện tử phải được thu thập từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông, trên đường truyền và các nguồn điện tử khác theo quy định của pháp luật. Trong quá trình thu thập, bảo quản, đánh giá, sử dụng nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử phải đặc biệt chú ý đến tính xác thực của nó.
+ Thuộc tính thứ hai đó là tính liên quan của dữ liệu điện tử thu được phải có liên quan đến vụ án mới có khả năng làm rõ những vấn đề cần chứng minh và do đó mới được coi là chứng cứ. Tính liên quan của dữ liệu được thể hiện ở nhiều khía cạnh, quá trình hình thành, tồn tại của dữ liệu điện tử phải liên quan đến vụ việc dân sự được Tòa án giải quyết. Nhờ dữ liệu điện tử đó mà Tòa án có thể công nhận hay phủ nhận được tình tiết, sự kiện này hay tình tiết sự kiện khác của vụ việc dân sự hoặc đưa ra tin tức về nó.
+ Thuộc tính thứ ba đó là tính hợp pháp của dữ liệu và tính hợp pháp thể hiện ở chỗ chứng cứ phải được phát hiện, thu thập theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Tòa án bằng các biện pháp do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định khi thu thập dữ liệu phải tuân thủ quy định của pháp luật về căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn thu thập dữ liệu và khi sử dụng dữ liệu phải chú ý kiểm tra tính hợp pháp của biện pháp thu thập.
Căn cứ vào quy định tại khoản 8 điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về nguồn chứng cứ là văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập: Về bản chất, văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có năng lực lập cũng chỉ là các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được. Điển hình cho loại nguồn chứng cứ này chính là vi bằng do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được sử dụng làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác.
Cuối cùng đó là theo quy định tại khoản 9 diều 94 Bộ Luật tố tụng dân sự quy định về nguồn chứng cứ là văn bản công chứng, chứng thực thì theo đó phần lớn thủ tục, hồ sơ thực hiện các giao dịch dân sự đều sử dụng văn bản công chứng của tổ chức, cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Các văn bản công chứng có giá trị xác thực, giá trị pháp lý và độ tin cậy hơn các loại giấy tờ không có chứng nhận xác thực hoặc chỉ trình bày bằng miệng.