Việc thu thập nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử một cách có hệ thống trong quá trình tiến hành tố tụng sẽ giúp ích trong việc đưa đến sự nhận thức đúng đắn bản chất của vụ án, dựng lại toàn bộ diễn biến khách quan của sự việc phạm tội.
Mục lục bài viết
1. Sự phụ thuộc vào phần cứng và phần mềm:
Các nguồn chứng cứ truyền thống giúp con người dễ dàng tiếp cận thông tin sau khi được tạo ra. Mọi sự vật, hiện tượng đều có thuộc tính phản ánh, nên hoạt động của con người, trong đó có hành vi phạm tội đều để lại dấu vết bên ngoài thế giới khách quan. Những dấu vết của hành vi phạm tội có thể được thể hiện dưới dạng vật chất hoặc được phản ánh, ghi nhận trong trí nhớ của con người. Vì vậy, thông qua việc thu thập nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử một cách có hệ thống trong quá trình tiến hành tố tụng sẽ đưa đến sự nhận thức đúng đắn bản chất của vụ án, dựng lại toàn bộ diễn biến khách quan của sự việc phạm tội.
Ngược lại, dữ liệu ở dạng điện tử phụ thuộc vào phần cứng và phần mềm. Dữ liệu yêu cầu một phần mềm thông dịch để cho phép nó được hiển thị ở định dạng mà con người có thể đọc được, nghe được hoặc nhìn được. Người dùng không thể tạo hoặc thao tác dữ liệu điện tử mà không có phần cứng thích hợp. Dữ liệu điện tử không nên được coi như một đối tượng “ở đâu đó” trên máy tính, giống như một cuốn sách trong thư viện. Thay vào đó, dữ liệu điện tử được hiểu rõ hơn là một quá trình mà theo đó các phần dữ liệu khó hiểu được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử được tập hợp, xử lý và hiển thị cho người dùng dễ đọc được, nghe được hoặc nhìn được.
Theo nghĩa này, dữ liệu điện tử nó không tồn tại độc lập với phần mềm và nó được tái tạo bằng thiết bị phần cứng) mỗi khi người dùng mở nó. Nếu những dữ liệu điện tử đó được tạo ra vào những năm 1990, thì những phần mềm này hiện không còn được bán trên thị trường nữa và ngay cả khi có phần mềm như vậy, có thể không thể tải nó trên một hệ điều hành hiện đại. Một vấn đề khác đối với dữ liệu cũ hơn là cần phải có một máy cụ thể với phần mềm cụ thể để đọc dữ liệu.
2. Tốc độ công nghệ ảnh hưởng đến dữ liệu điện tử:
Công nghệ thay đổi nhanh chóng về hệ điều hành, phần mềm ứng dụng và phần cứng. Do đó, dữ liệu điện tử có thể trong tương lai sẽ không thể đọc, hiểu hoặc sử dụng chúng với phần mềm hoặc phần cứng mới. Ví dụ: một công ty phần mềm có thể không còn sản xuất phần mềm tương thích với những dữ liệu điện tử cũ nữa. Sự lỗi thời về kỹ thuật là một vấn đề lớn ảnh hưởng đến mọi quá trình tố tụng, đặc biệt là do tốc độ thay đổi hiện nay trở nên quá nhanh cả về phần mềm và phần cứng.
Đặc điểm về tốc độ thay đổi không ngừng của công nghệ có thể đối chiếu với nguồn chứng cứ truyền thống. Nguồn chứng cứ nhận dạng của nhân chứng là một trong những dạng nguồn chứng cứ lâu đời nhất, nếu không muốn nói là lâu đời nhất, được sử dụng trong xét xử. Mặc dù vậy, cách chúng ta thu thập và giải thích nguồn chứng cứ nhân chứng trong các thủ tục tố tụng đã thay đổi rất ít qua nhiều thế kỷ và các hệ thống pháp luật thường xuyên giữ các khái niệm lỗi thời về mặt văn hóa như lời thề. Nguồn chứng cứ dấu vân tay muộn hơn, với thời gian sử dụng hơn một trăm năm (từ năm 1905 đến nay). Kể từ khi thành lập, trong khi những điều cơ bản của môn học vẫn giữ nguyên, có những thay đổi quan trọng trong cách giải thích nguồn chứng cứ dấu vân tay, cũng như các quy trình thu thập, phân tích, giám định dấu vân tay. Nguồn chứng cứ DNA vẫn còn muộn hơn, nhưng trong lịch sử của nó, đã có những thay đổi đáng kể trong cách thức thu thập, phân tích và giải thích DNA. Đối với nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử, tốc độ thay đổi là nhanh hơn. Điều đó cũng có nghĩa là một chuyên gia phải có kiến thức cập nhật và được đào tạo liên tục, điều quan trọng hơn là kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Chuyên gia về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử cần biết và được đào tạo về loại thiết bị và phần mềm cụ thể mà họ được yêu cầu phân tích.
Khả năng điều tra vụ án hình sự cũng bị cản trở bởi tốc độ thay đổi của công nghệ. Đặc biệt, việc có được các công cụ điện tử có liên quan để phân tích một thiết bị điện tử hay dữ liệu điện tử có thể khó khăn vì hai lý do: thứ nhất, các công cụ này vẫn chưa được phát minh, và thứ hai, vì những công cụ đó có thể đắt tiền.
3. Dữ liệu điện tử dễ bị xóa hoặc thay đổi:
Dữ liệu điện tử dễ bị tác động, bị xóa hoặc thay đổi trong quá trình lưu trữ, truyền tải, sao chép… bởi các tác nhân như virus, dung lượng bộ nhớ, lệnh của phần mềm, phương pháp truy cập, mở, giải mã, truyền tải trên mạng, sao lưu, cố ý hoặc vô ý sửa đổi, xóa….
Dựa vào đặc điểm này của dữ liệu điện tử, thì các CQTHTT cần có những biện pháp phát hiện cũng như thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử kịp thời, đầy đủ, đúng thực trạng. Từ đó giúp giải quyết vụ án hình sự chính xác, xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Đồng thời, dựa vào đặc điểm này thì các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần lưu trữ, bảo toàn nguyên vẹn dữ liệu điện tử mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thu thập, sao lưu để đảm bảo dữ liệu điện tử đó có đầy đủ điều kiện để dùng làm chứng cứ chứng minh trong vụ án hình sự.
4. Khối lượng và nhân bản:
Việc tích hợp mạng viễn thông và máy tính để tạo thành mạng máy tính (chẳng hạn như mạng Internet) cho phép dữ liệu được tạo ra và trao đổi với khối lượng lớn hơn nhiều so với mức có thể cho đến nay, và vượt qua các ranh giới vật lý và địa lý. Về bản chất email, tin nhắn và Internet là một công nghệ sao chép và phân tán. Một khi các máy tính được nối mạng với nhau theo kiểu này, một dữ liệu điện tử có thể được truyền đi và nhiều bản sao được phân phối trên khắp thế giới rất nhanh.
Việc dễ dàng truyền đi và sao chép các dữ liệu điện tử đã làm tăng khối lượng dữ liệu tiềm năng cần được xác định để có được các dữ liệu liên quan đến vụ án hình sự. Do đó, để có thể tìm kiếm được dữ liệu có tính liên quan đến vụ án hình sự thì yêu cầu đặt ra đối với các điều tra viên và chuyên gia phải có trình độ, sự hiểu hiểu biết và kinh nghiệm chuyên sâu về dữ liệu điện tử. Để đối phó hiệu quả với khối lượng dữ liệu này, sẽ cần đến các công cụ máy tính cũng như phần mềm khai thác dữ liệu.
Nhiều người dùng máy tính hiện thường tải lên tất cả các tệp của họ với mục đích sao lưu tới các nhà cung cấp dựa trên Internet (công nghệ “điện toán đám mây”), liên quan đến việc thuê ngoài dữ liệu của các máy chủ của bên thứ ba (ví dụ Google) không thuộc sở hữu và kiểm soát của họ và máy chủ có thể được đặt trên toàn thế giới. Mặt khác, việc tự động tải dữ liệu lên cũng đồng nghĩa với việc người dùng thiết bị mất quyền kiểm soát thông tin mà mình đã tạo. Việc xóa hoặc loại bỏ thông tin có thể ngày càng trở nên khó khăn hơn khi nó đã được tạo trên thiết bị và thông tin được tải lên “đám mây”.
5. Siêu dữ liệu (metadata):
Siêu dữ liệu (metadata) là dạng dữ liệu mô tả thông tin chi tiết về dữ liệu. Trong cơ sở dữ liệu, metadata là các sửa đổi dạng biểu diễn khác nhau của các đối tượng trong cơ sở dữ liệu. Trong cơ sở dữ liệu điện tử thì metadata là các định nghĩa của bảng, cột, cơ sở dữ liệu, view và nhiều đối tượng khác. Trong kho dữ liệu, metadata là dạng định nghĩa dữ liệu như: bảng, cột, một báo cáo hay những quy tắc biến đổi. Metadata bao quát tất cả các phương diện của kho dữ liệu. Trong quản lý tập tin, metadata chứa các thông tin thuộc tính của tập tin đó như: tên tập tin, mô tả tóm tắt, kích cỡ, ngày tạo ra…
Metadata là dữ liệu để mô tả dữ liệu. Khi dữ liệu được cung cấp cho người dùng cuối, thông tin metadata sẽ cung cấp những thông tin cho phép họ hiểu rõ hơn bản chất về dữ liệu mà họ đang có. Những thông tin này sẽ giúp cho người dùng có được những quyết định sử dụng đúng đắn và phù hợp về dữ liệu mà họ đang có. Tuỳ thuộc vào từng mục đích sử dụng khác nhau, từng loại dữ liệu khác nhau mà cấu trúc và nội dung dữ liệu metadata có thể có những sự khác biệt. Song, nhìn chung sẽ bao gồm một số loại thông tin cơ bản như sau:
– Thông tin mô tả về bản thân dữ liệu metadata. – Thông tin về dữ liệu mà metadata mô tả. – Thông tin về cá nhân, tổ chức liên quan đến dữ liệu metadata và dữ liệu.
Tất cả các dữ liệu ở định dạng điện tử sẽ chứa siêu dữ liệu ở dạng này hay dạng khác, bao gồm thông tin liên lạc qua email, bảng tính, trang web và tài liệu văn bản. Trên thực tế, một dữ liệu điện tử phải có siêu dữ liệu để giúp diễn giải mục đích của dữ liệu điện tử. Dữ liệu đó có thể bao gồm và được lấy tự động từ phần mềm ứng dụng gốc hoặc do người tạo bản ghi ban đầu cung cấp. Danh sách thông tin có sẵn bao gồm: thời điểm và cách thức một tài liệu được tạo (ngày và giờ), loại tệp, kích cỡ, vị trí mà từ đó tệp đã được mở hoặc nơi nó được lưu trữ, khi tập được mở lần cuối ngày và giờ), khi nó được sửa đổi lần cuối, khi tập được lưu lần cuối, khi nó được in lần cuối, danh tính của tệp có mục đích các tác giả trước đó, vị trí của tệp trong mỗi lần nó được lưu trữ, thông tin chi tiết về những người khác có thể có quyền truy cập vào tệp. Vì siêu dữ liệu thường được phần mềm tạo tự động và người dùng không biết, do đó, việc thay đổi, thao tác hoặc xóa cũng khó hơn. Việc giải thích siêu dữ liệu đòi hỏi sự cần thiết phải đưa ra các giả định về môi trường mà chúng được tạo ra. Nếu thời gian trên thiết bị không chính xác (ví dụ: máy tính xách tay di chuyển qua các múi giờ mà không được điều chỉnh theo múi giờ này hoặc đồng hồ chạy chậm hoặc đã được cố tình thay đổi), siêu dữ liệu được ghi sẽ là sai.
6. Sự thể hiện trung gian (chuyển đổi) của dữ liệu điện tử:
Dữ liệu điện tử phải được chuyển thành dạng mà con người có thể đọc được, nghe được hoặc nhìn được thông qua trung gian của một bộ công nghệ (bao gồm cả phần mềm và phần cứng). Điều này có nghĩa là sự khác biệt xảy ra trong cách hiển thị cùng một đối tượng nguồn trong các tình huống khác nhau. Một ví dụ điển hình phổ biến cho tất cả người dùng Internet là một trang web có thể trông rất khác nhau tùy thuộc vào loại màn hình và trình duyệt được sử dụng. Do đó, không thể có khái niệm về một trung gian của một đối tượng dữ liệu điện tử cụ thể. Điều này có thể có hậu quả pháp lý rõ ràng. Một tài liệu hợp đồng điện tử được soạn thảo và được gửi qua email cho người mua và được mở trên máy của người mua bằng một chương trình phần mềm khác, dữ liệu định dạng này có thể không đọc được.
Với nguồn chứng cứ truyền thống, hành động quan sát hoặc phân tích hiện trường vụ án không được phép làm thay đổi hiện trường, vật chứng cần phải được thu thập đầy đủ, kịp thời tránh mất mát, hư hỏng hay bị tiêu huỷ hoặc đánh tráo. Ngược lại, với nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử, hành động khởi động máy tính và mở dữ liệu sẽ làm thay đổi nó. Những người sử dụng khác nhau chỉ sử dụng máy móc khác nhau một chút sẽ tạo lại các phiên bản khác nhau của dữ liệu điện tử được đề cập và không dễ dàng để quyết định cái nào trong số chúng là “xác thực”. Để quản lý vấn đề này, có lẽ chúng ta có thể phải xác định các tiêu chuẩn, giao thức và quy trình thích hợp, cũng như phần cứng và phần mềm liên quan đến việc quản lý và sử dụng bất kỳ dữ liệu điện tử nào. Do đó, cần có những quy định về việc chuyển đổi trung gian dữ liệu điện tử để đảm bảo các dạng có thể đọc được, nghe được hoặc nhìn được của dữ liệu điện tử thể hiện một cách xác thực nhất.
7. Phương tiện lưu trữ:
Phương tiện mà dữ liệu điện tử được lưu trữ trên đó rất mỏng manh. Phương tiện lưu trữ điện tử vốn không ổn định và trừ khi phương tiện được lưu trữ đúng cách, nó có thể xuống cấp nhanh chóng mà không có dấu hiệu hư hỏng bên ngoài. Nó cũng có nguy cơ bị thiệt hại do vô ý hoặc cố ý và việc xóa do cố ý hoặc cố ý.
Máy tính và hệ thống hiện nay chủ yếu hoạt động trong môi trường kết nối mạng. Thế giới mạng bao gồm các thiết bị (máy nghe nhạc MP3, máy tính, máy tính xách tay, điện thoại di động, trợ lý ảo cá nhân, máy tính bảng…) được liên kết bằng các ứng dụng chạy qua các mạng Internet, mạng nội bộ, mạng không dây, mạng di động…). Bản chất của thiết lập này là hầu hết mọi thứ mà bất kỳ ai làm trên một thiết bị được kết nối với mạng đều có khả năng được phân phối và nhân bản một cách dễ dàng. Kết quả là, cùng một mục dữ liệu điện tử có thể lưu trữ ở hầu hết mọi nơi. Điều này ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án hình sự.