Trong đà phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật luôn luôn đòi hỏi sự hợp tác trong điều kiện hội nhập cả về kinh tế, văn hóa giữa các quốc gia trên thế giới. Chính vì vậy, việc hoàn thiện hành lang pháp lý trong lĩnh vực Tư pháp quốc tế là quan trọng. Cùng tìm hiểu về nguồn bổ trợ và nguồn bổ trợ trong tư pháp quốc tế được quy định như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Nguồn bổ trợ trong tư pháp quốc tế là gì?
Nguồn bổ trợ (hay phương tiện bổ trợ nguồn của luật quốc tế) là loại nguồn không trực tiếp chứa đựng các quy phạm pháp luật quốc tế, hầu như chỉ có ý nghĩa khuyến nghị đối với các chủ thể luật quốc tế, chúng bao gồm các phán quyết của
2. Quy định về nguồn bổ trợ trong tư pháp:
2.1 Nguồn bổ trợ trong tư pháp quốc tế:
– Các nguyên tắc pháp luật chung là những nguyên tắc mang tinh chất pháp lý kỹ thuật được ghi nhận trong hầu hết các hệ thống pháp luật trên thế giới và được các cơ quan tài phán quốc tế áp dụng trong trường hợp không có các nguyên tắc và các quy phạm luật quốc tế. Ví dụ: Nguyên tắc luật chung thay thế nguyên tắc luật riêng, luật sau thay thế luật trước. Nguyên tắc không ai là thẩm phán trong vụ việc của chính mình.
– Hành vi pháp lý đơn phương là hành vi do các chủ thể có thẩm quyền của quốc gia thể hiện nhằm mục đích xác lập về quyền và nghĩa vụ pháp lý cho quốc gia.
– Phán quyết của cơ quan tài phán quốc tế là các phán quyết giải quyết tranh chấp do các cơ quan tài phán quốc tế đưa ra có vai trò làm sáng tỏ hoặc là cơ sở hình thành điều ước quốc tế và tập quán quốc tế.
– Nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ là những văn bản không có giá trị pháp lý ràng buộc. Do các tổ chức quốc tế đưa ra nhắm giải thích hoặc giải quyết một số vấn đề của luật quốc tế.
– Học thuyết của các học giả
Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và tư pháp quốc tế là có giá trị ngang nhau về việc tồn tại quy phạm điều ước không làm loại bỏ hiệu lực quy phạm tập quán cùng một vấn đề. Một quy phạm có thể tồn tại dưới dạng điều ước quốc tế và tập quán quốc tế thì tùy từng chủ thể sẽ chọn hình thức phù hợp với mình, điều ước quốc tế có thể loại bỏ giá trị của tập quán quốc tế, cá biệt có trường hợp ngược lại.
Ví dụ khi điều ước quốc tế xuất hiện dưới dạng quy phạm mệnh lệnh làm hủy bỏ, loại bỏ giá trị của tư pháp quốc tế xuất hiện trước đó hay quy phạm cấm dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế, điều ước quốc tế và hình thành tập quán quốc tế và ngược lại.
2.2 Các nguồn của tư pháp quốc tế:
Xuất phát từ đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế là quan hệ có tính chất đặc thù, do đó nguồn của tư pháp quốc tế cũng đặc thù và đa dạng hơn các ngành luật khác. Cụ thể bao gồm các nguồn sau:
Thứ nhất, về nguồn điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế là một trong những nguồn luật quan trọng của tư pháp quốc tế, đây là hệ thống những quy phạm pháp luật được xác lập bởi hai hoặc nhiều chủ thể của tư pháp quốc tế thỏa thuận và ký kết nhằm làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ giữa các bên trong quan hệ quốc tế.
Điều ước quốc tế mang ý nghĩa vô cùng thiết thực, được ký kết điều chỉnh ở nhiều lĩnh vực quan trọng như thương mại, hàng hải quốc tế, các hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự, dân sự và gia đình, … Bởi lẽ điều ước quốc tế được coi là nguồn của Tư pháp quốc tế khi các Điều ước quốc tế đó chứa đựng các nguyên tắc, các quy phạm điều chỉnh các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài
Tư pháp quốc tế đối với Việt Nam, qua thời gian Việt Nam cũng đã ký kết rất nhiều các điều ước quốc tế song phương, đa phương với các quốc gia trên nhiều lĩnh vực như: Công ước Pari năm 1983 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (1981), năm 1995 gia nhập Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài thương mại, …Bên cạnh đó, Việt Nam và các nước cũng đã ký kết với nhau về các hiệp định tương trợ và hợp tác tư pháp, cụ thể như với Nga vào năm 1998; Cộng hòa Séc và Slovakia năm 1982, Cu ba năm 1984; Hungari năm 1985, …
Thứ hai, về nguồn pháp luật trong nước
Với điều kiện đặc thù riêng của mỗi quốc gia cả về kinh tế, xã hội và chính trị và đồng thời cùng với tính chất đặc thù của tư pháp quốc tế là điều chỉnh mối quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài. Đây là các mối quan hệ mang tính chất đa dạng và phức tạp. Do vậy, để đảm bảo toàn diện việc điều chỉnh của tư pháp quốc tế, mỗi quốc gia đều tự ban hành trong hệ thống pháp luật của nước mình những quy phạm để điều chỉnh các vấn đề này.
Việc áp dụng pháp luật quốc gia trong giải quyết xung đột liên quan đến tư pháp quốc tế được thực hiện khi các bên có thỏa thuận hoặc cơ quan tài pháp lựa chọn áp dụng. Luật được lựa chọn không được trái với trật tự công cộng của nước có Tòa án giải quyết.
Thứ ba, nguồn tập quán quốc tế
Điều kiện và các yếu tố cấu thành tập quán quốc tế:
Phải là quy tắc xử sự chung, hình thành trong quan hệ giữa các quốc gia tuân thủ và áp dụng một cách tự nguyện, được áp dụng với tính chất là quy tắc xử sự chung, nhất là trong lĩnh vực ngoại giao và hàng hải trên biển quốc tế.
Quy tắc xử sự được coi là tập quán quốc tế và phải lặp đi, lặp lại nhiều lần, trải qua quá trình dài lâu và được các quốc gia thỏa thuận thừa nhận hiệu lực pháp lý bắt buộc đối với mình.
Tập quán quốc tế được hình thành trong quan hệ giữa các quốc gia với nhau và theo quan điểm mới thì trong luật quốc tế hiện đại tồn tại hai loại quy phạm tập quán quốc tế:
Quy phạm thứ nhất mang tính truyền thống, bao gồm các quy tắc xử sự không thành văn, hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế quốc tế và được các quốc gia thừa nhận hiệu lực pháp lý ràng buộc mình.
Quy phạm thứ hai bao gồm các quy tắc xử sự được ghi nhận, trong một số văn kiện, được các quốc gia thừa nhận hiệu lực pháp lý bắt buộc đối với mình với tư cách là tập quán quốc tế.
Tập quán quốc tế có thể được hình thành từ nhiều cách hình thành khác nhau như : tuyên bố đơn phương của một quốc gia, tuyên bố chung, thông cáo chung, từ phán quyết của Tòa án quốc tế liên hợp quốc, từ điều ước quốc tế, từ nghị quyết của tổ chức quốc tế
Thứ tư, nguồn án lệ
Án lệ là các bản án hoặc quyết định của Tòa án được sử dụng để giải quyết đối với những quan hệ tương ứng ở tương lai.
Án lệ ra đời nhằm để khắc phục tính khái quát hóa và tính không thể dự đoán hết các tình huống sẽ xảy ra trong tương lai của luật thành văn.
Án lệ được xây dựng và phát triển khi xử lý những tình huống bất thường, chưa có luật điều chỉnh hoặc đã ban hành luật nhưng thiếu cụ thể, rõ ràng, cần được giải thích, làm rõ hơn. Chính vì vậy, tòa án cần phải được trao quyền để xử lý cả những tình huống không có luật điều chỉnh, được phát triển một quy tắc pháp lý mới để đi ngược lại lời văn của luật về mặt hình thức do bối cảnh thực tiễn xã hội đã thay đổi và thiết lập ra một nguyên tắc pháp luật mới phù hợp với nhiệm vụ, định hướng xét xử của tòa với mục tiêu cao nhất của tòa án là bảo vệ công lý.
Thông qua quá trình xét xử thì số lượng án lệ sẽ ngày càng gia tăng, để thuận tiện cho việc tìm kiếm thì phải có sự sắp xếp và lưu trữ một cách khoa học các bản án. Có rất nhiều cách để hệ thống lại các bản án lệ lưu trữ theo thời gian xét xử, phân theo cấp Tòa và phân theo loại vụ việc. Án lệ cần được phát triển theo giá trị thành: Án lệ để áp dụng, án lệ để giải thích luật, và các bản án mẫu để thẩm phán có thể tham khảo.
3. Trình tự áp dụng các loại nguồn của Tư pháp quốc tế:
Theo quy định tại Điều 664
– Thứ nhất, áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, pháp luật áp dụng được xác định theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc theo quy định pháp luật của Việt Nam
Đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài có hai trường hợp xảy ra:
Trường hợp 1: Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì quy định của điều ước quốc tế đó được áp dụng.
Trường hợp 2: Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Phần này và luật khác về pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì quy định của điều ước quốc tế đó được áp dụng.
– Thứ hai, trong trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc pháp luật Việt Nam có quy định về việc các bên tham gia quan hệ có quyền được lựa chọn luật áp dụng thì pháp luật áp dụng trong quan hệ đó sẽ theo sự thỏa thuận lựa chọn của các bên.
– Thứ ba, trong trường hợp điều ước quốc tế hay pháp luật Việt Nam không quy định và các bên cũng không có lựa chọn thì việc áp dụng pháp luật đối với tư pháp quốc tế được xác định dựa trên cơ sở pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đó.