Pháp luật Việt Nam quy định mọi công dân được bình đẳng về hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ mà không bị phân biệt bởi dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, giới tính,.... Vậy người theo đạo Tin Lành có được phép ly hôn (ly dị) không?
Mục lục bài viết
1. Nguồn gốc của đạo Tin Lành:
Vào những năm đầu Công nguyên, tại vùng đất Trung Đông, một tôn giáo mới đã nảy sinh và dần dần lan rộng khắp các vùng đất xung quanh. Tôn giáo này tôn thờ một Đấng cứu thế, được biết đến dưới cái tên Jesus Christ, hay Giê-su Ki-tô khi dịch sang tiếng Việt. Theo thời gian, tôn giáo mới này với tên gọi trong tiếng Hy Lạp là “Đạo Tin lành”, đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo hùng mạnh, ảnh hưởng sâu rộng đến cả châu Âu. Tên gọi Jesus Christ được người Việt phiên âm là Giê-su, và trong tiếng Hán, tên này được dịch là Gia Tô. Từ “Christ” trong tên gọi còn mang ý nghĩa “Cơ đốc giáo,” và từ đó, Đạo Tin lành cũng được biết đến dưới nhiều tên khác nhau như Đạo Cơ đốc giáo, Đạo Công giáo, Đạo Chính thống giáo, và Đạo Anh giáo.
Vào thế kỷ XVI, Đạo Tin lành chính thức ra đời tại châu Âu trong một bối cảnh lịch sử đầy biến động, khi các lực lượng chính trị và xã hội đang thay đổi một cách mạnh mẽ. Thời kỳ này chứng kiến sự trỗi dậy của giai cấp tư sản – một tầng lớp mới nổi, đầy tham vọng và khát khao thay đổi cả về chính trị lẫn xã hội. Họ cảm thấy bức bối trước sự thống trị của đạo Công giáo, vốn đã trở nên gắn liền với quyền lực chính trị và bị lợi dụng để củng cố địa vị của tầng lớp phong kiến. Trong tình hình đó, Đạo Tin lành đã trở thành lá cờ đầu của kháng chiến, nơi giai cấp tư sản tìm thấy một nguồn sức mạnh để đẩy lùi ảnh hưởng của giai cấp phong kiến và chuẩn bị cho những cuộc cách mạng xã hội đang dần hình thành trên toàn châu lục.
Đạo Tin lành xuất hiện không chỉ là một sự thay đổi về số lượng tôn giáo trên thế giới, mà còn là một cuộc cách mạng tư tưởng, đánh dấu bước ngoặt lớn trong lịch sử châu Âu. Nó mang theo khát vọng về tự do cá nhân, về quyền tự chủ của con người, và thách thức sự thống trị của những chế độ cũ, tạo tiền đề cho sự phát triển của nền văn minh phương Tây trong nhiều thế kỷ tiếp theo.
2. Quá trình hình thành và phát triển của đạo Tin Lành tại Việt Nam:
Vào cuối thế kỷ 19, một nhóm tín hữu Kháng Cách người châu Âu đã tiên phong mang ánh sáng của đức tin đến Việt Nam. Họ đặt chân đến Hải Phòng và vào năm 1884, thành lập một nhà thờ đầu tiên tại đây. Sự hiện diện của các tín hữu Kháng Cách bắt đầu lan rộng khi những giáo đoàn khác lần lượt được thành lập ở các thành phố trọng yếu như Hà Nội và Sài Gòn vào năm 1902. Tuy nhiên, năm 1911 mới thực sự đánh dấu cột mốc quan trọng trong hành trình đức tin Kháng Cách tại Việt Nam. Đây là thời điểm các nhà truyền giáo thuộc Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp (Christian and Missionary Alliance – C&MA) đặt chân đến Tourane, ngày nay là Đà Nẵng, để thiết lập cơ sở truyền giáo đầu tiên, mở ra một giai đoạn mới trong việc truyền bá đức tin này trên đất Việt.
Năm 1927, Hội thánh Tin Lành Việt Nam, được hỗ trợ bởi Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp, chính thức ra đời. Đây là tổ chức Kháng Cách đầu tiên được thành lập tại Việt Nam, và do đó, thuật ngữ “Đạo Tin Lành” thường được sử dụng để chỉ chung các nhóm, hệ phái Kháng Cách tại đây. Sau sự kiện này, các hệ phái Kháng Cách khác lần lượt được thành lập, góp phần làm phong phú thêm bức tranh tôn giáo của Việt Nam. Họ không chỉ nỗ lực thuyết giảng Phúc Âm mà còn tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội, từ thiện, góp phần không nhỏ vào sự phát triển của cộng đồng địa phương.
Đến nay, theo nhiều ước tính khác nhau, số lượng tín hữu thuộc cộng đồng Kháng Cách tại Việt Nam dao động từ khoảng 1 triệu đến hơn 1,4 triệu người. Đây là một con số đáng kể, phản ánh sự phát triển mạnh mẽ và bền vững của tôn giáo này. Tin Lành được xem là một trong những tôn giáo có tốc độ phát triển nhanh và ổn định nhất tại Việt Nam, đặc biệt là tại khu vực miền Bắc, nơi số lượng tín hữu Tin Lành đang gia tăng một cách nhanh chóng.
3. Người theo đạo Tin Lành có được phép ly hôn (ly dị) không?
3.1. Cơ sở giáo lý:
Đạo Tin Lành quy định những người trong đạo đã kết hôn thì không được phép ly hôn (ly dị). Trong giáo lý quy định rằng hôn nhất là mãi mãi và trường tồn giữa vợ và chồng. Do đó việc ly hôn là trái lại với những gì quy định trong giáo lý.
Đạo Tin Lành vốn là một nhánh xuất phát từ Kitô giáo, mà theo Đức Kitô răn dạy rằng: “Ai bỏ vợ mình mà lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng mà lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình”.
Vì vậy trên cơ sở giáo lý thì người theo đạo Tin Lành không được phép ly hôn.
3.2. Cơ sở pháp luật:
Tại Khoản 2, Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định:
“Cấm các hành vi sau đây:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;
e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;
g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;
h) Bạo lực gia đình;
i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi”.
Vì vậy, trên cơ sở pháp lý không ai có quyền cản trở ly hôn giữa vợ và chồng vì bất cứ lý do gì. Như vậy có thể khẳng định, theo phương diện pháp luật thì những người theo đạo Tin Lành hoàn toàn vẫn có thể tiến hành làm thủ tục ly hôn theo đúng quy định của pháp luật Hôn nhân và gia đình.
4. Khi nào người theo đạo Tin Lành được ly hôn?
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Không có quy định hạn chế quyền ly hôn dựa trên tôn giáo, vì vậy người theo tôn giáo nào cũng đều có quyền ly hôn theo pháp luật khi có đầy đủ căn cứ.
Trong trường hợp thuận tình ly hôn: là trường hợp mà vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn. Nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.
Trong trường hợp đơn phương ly hôn tức ly hôn theo yêu cầu của một bên thì dựa trên một trong những căn cứ sau:
– Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
– Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
– Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.
THAM KHẢO THÊM: