Người sử dụng lao động chậm trả lương cho người lao động phải bồi thường như thế nào?
Người sử dụng lao động chậm trả lương cho người lao động phải bồi thường như thế nào?
Tóm tắt câu hỏi:
Kính gửi: Phòng Luật sư tư vấn Chúng tôi có một câu hỏi như sau: Hiện tai chúng tôi đang làm việc cho một khu công nghiệp, việc làm đòi hỏi chúng tôi phải trực ca (08 giờ/ngày). Dịp Tết Dương lịch và Âm lịch năm 2016 vừa qua, do yêu cầu công việc, chúng tôi vẫn đi làm theo ca trực như ngày bình thường (08 giờ/ngày). Đến nay, công ty chúng tôi vẫn chưa trả tiền làm thêm ngày nghỉ lễ cho chúng tôi mà thay vào đó họ sẽ cho chúng tôi đăng ký nghỉ bù (01 ngày làm việc ngày lễ = 03 ngày nghỉ). Kính mong văn phòng luật sư tư vấn, việc làm trên của công ty là đúng hay không? Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý:
2. Luật sư tư vấn:
hứ nhất, Điều 115 “Bộ luật lao động 2019” quy định:
* Người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương trong những ngày lễ, tết sau đây:
– Tết Dương lịch 01 ngày (ngày 01 tháng 01 dương lịch);
– Tết Âm lịch 05 ngày;
– Ngày Chiến thắng 01 ngày (ngày 30 tháng 4 dương lịch);
– Ngày Quốc tế lao động 01 ngày (ngày 01 tháng 5 dương lịch);
– Ngày Quốc khánh 01 ngày (ngày 02 tháng 9 dương lịch);
– Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương 01 ngày (ngày 10 tháng 3 âm lịch).
* Lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam ngoài ngày nghỉ lễ theo quy định tại khoản 1 Điều này còn được nghỉ thêm 01 ngày Tết cổ truyền dân tộc và 01 ngày Quốc khánh của nước họ.
* Nếu những ngày nghỉ theo quy định tại khoản 1 Điều này trùng vào ngày nghỉ hằng tuần, thì người lao động được nghỉ bù vào ngày kế tiếp.
Như vậy, đối với những ngày nghỉ tết, người lao động được nghỉ việc và hưởng nguyên lương theo quy định pháp luật.
Trường hợp người lao động đi làm vào những ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết thì được hưởng tiền lương làm thêm giờ theo quy định tại Điều 97 “Bộ luật lao động 2019”:
* Người lao động làm thêm giờ được trả lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc đang làm như sau:
– Vào ngày thường, ít nhất bằng 150%;
– Vào ngày nghỉ hằng tuần, ít nhất bằng 200%;
– Vào ngày nghỉ lễ, ngày nghỉ có hưởng lương, ít nhất bằng 300% chưa kể tiền lương ngày lễ, ngày nghỉ có hưởng lương đối với người lao động hưởng lương ngày.
* Người lao động làm việc vào ban đêm, thì được trả thêm ít nhất bằng 30% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc của ngày làm việc bình thường.
* Người lao động làm thêm giờ vào ban đêm thì ngoài việc trả lương theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, người lao động còn được trả thêm 20% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc làm vào ban ngày.
Như vậy, khi bạn làm việc vào ngày nghỉ Tết âm lịch, thì được hưởng nguyên tiền lương của ngày làm việc bình thương và tiền lương làm thêm giờ ít nhất bằng 300% tiền lương ngày làm việc bình thường trong 01 ngày làm.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật lao động qua tổng đài: 1900.6568
Trường hợp bạn làm việc vào ca đêm của ngày nghỉ Tết thì tiền lương làm ca đêm được trả thêm ít nhất 30% tiền lương theo đơn giá hoặc theo công việc của ngày làm việc bình thường. Ngoài ra, bạn còn được hưởng tiền lương làm thêm giờ khi làm việc vào ngày nghỉ Tết ít nhất bằng 300% tiền lương theo đơn giá hoặc theo công việc của ca làm đêm trong 01 ngày làm.
Căn cứ Điều 96 “Bộ luật lao động 2019” quy định về nguyên tắc trả lương như sau:
"Người lao động được trả lương trực tiếp, đầy đủ và đúng thời hạn.
Trường hợp đặc biệt không thể trả lương đúng thời hạn thì không được chậm quá 01 tháng và người sử dụng lao động phải trả thêm cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng lãi suất huy động tiền gửi do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm trả lương.”
Theo đó, công ty có trách nhiệm trả tiền lương cho nhân viên và việc đăng ký nghỉ bù 01 ngày làm việc ngày lễ = 03 ngày nghỉ là không đúng với quy định của pháp luật.
Thứ hai, về việc chậm trả lương nếu người sử dụng lao động không đưa ra lý do quy định tại Khoản 2 Điều 24 Nghị định 05/2015/NĐ-CP thì việc công ty chậm trả lương 5 ngày phải bồi thường cho người lao động, ngoài việc phải trả đủ lương còn phải trả thêm một khoản tiền ít nhất bằng lãi suất huy động tiền gửi do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm trả lương.
Ngoài ra, người sử dụng lao động sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại Khoản 3 Điều 13 Nghị định 88/2015/NĐ-CP sửa đổi bổ sung Nghị định 95/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng: Phạt tiền người sử dụng lao động có một trong các hành vi: Trả lương không đúng hạn; trả lương thấp hơn mức quy định tại thang lương, bảng lương đã gửi cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp huyện; không trả hoặc trả không đủ tiền lương làm thêm giờ, tiền lương làm việc ban đêm, tiền lương ngừng việc cho người lao động theo quy định của pháp luật; khấu trừ tiền lương của người lao động không đúng quy định của pháp luật; trả lương không đúng quy định cho người lao động khi tạm thời chuyển người lao động sang làm công việc khác so với
– Từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng với vi phạm từ 01 người đến 10 người lao động;
– Từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng với vi phạm từ 11 người đến 50 người lao động;
– Từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng với vi phạm từ 51 người đến 100 người lao động;
– Từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng với vi phạm từ 101 người đến 300 người lao động;
– Từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng với vi phạm từ 301 người lao động trở lên."
Nếu công ty có lí do chính đáng quy định tại Khoản 2 Điều 24 Nghị định 05/2015/NĐ-CP thì không phải trả thêm khoản bồi thường. Nhưng nếu đến ngày thứ 15 kể từ ngày trả lương hàng tháng, công ty vẫn chưa trả lương thì người sử dụng lao động phải bồi thường cho người lao động theo điểm b Khoản 2 Điều 24 Nghị định 05/2015/NĐ-CP.
Bạn có quyền làm đơn khiếu nại gửi tới Phòng lao động thương binh xã hội cấp huyện hoặc khởi kiện tới Tòa án nhân dân cấp huyện nơi công ty có trụ sở để giải quyết tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động và người sử dụng lao động.