Trong số các biện pháp thay thế tù, án treo là lựa chọn được nhiều người quan tâm vì giúp người phạm tội tiếp tục sinh sống và lao động trong cộng đồng. Tuy nhiên, không phải cứ phạm tội ít nghiêm trọng là mặc nhiên được hưởng án treo. Việc áp dụng án treo phụ thuộc vào nhiều tiêu chí pháp lý cụ thể. Vậy: Phạm tội ít nghiêm trọng có thể được hưởng án treo không?
Mục lục bài viết
1. Người phạm tội ít nghiêm trọng có thể được hưởng án treo hay không?
Trong thực tiễn xét xử, rất nhiều trường hợp người phạm tội rơi vào nhóm tội ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt, lần đầu vi phạm pháp luật và hoàn toàn có khả năng tự cải tạo trong cộng đồng. Vì vậy, câu hỏi “Phạm tội ít nghiêm trọng có thể được hưởng án treo không?” luôn là thắc mắc phổ biến của bị cáo, gia đình và cả những người làm công tác pháp lý. Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam trong những trường hợp không cần thiết phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội.
Tuy nhiên, việc phạm tội ít nghiêm trọng không đồng nghĩa với việc đương nhiên được hưởng án treo. Tòa án chỉ xem xét áp dụng án treo nếu người phạm tội đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo Điều 65 Bộ luật Hình sự.
Căn cứ theo Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về án treo cụ thể như sau: Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.
Đồng thời, tại Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP (sửa đổi, bổ sung vởi điểm a, b khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP) quy định về một số tình tiết xem xét đối với án treo như sau:
(1) Bị xử phạt tù không quá 03 năm.
(2) Người bị xử phạt tù có nhân thân là ngoài lần phạm tội này, người phạm tội chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc.
- Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà tính đến ngày phạm tội lần này đã quá thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo;
- Đối với người bị kết án mà khi định tội đã sử dụng tình tiết “đã bị xử lý kỷ luật” hoặc “đã bị xử phạt vi phạm hành chính” hoặc “đã bị kết án” và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo;
- Đối với người bị kết án mà vụ án được tách ra để giải quyết trong các giai đoạn khác nhau (tách thành nhiều vụ án) và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.
(3) Tình tiết giảm nhẹ:
- Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015;
- Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.
(4) Có nơi cứ trú rõ ràng:
- Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục;
- Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú 2020 mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo;
- Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Ngoài các điều kiện trên nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự và an toàn xã hội.
Như vậy: Phạm tội ít nghiêm trọng được xem là một trong những điều kiện cho hưởng án treo. Người phạm tội ít nghiêm trọng CÓ THỂ được hưởng án treo nếu đáp ứng được thêm các điều kiện khác theo quy định của pháp luật.
2. Phạm tội ít nghiêm trọng lần đầu do lỗi vô ý có áp dụng hình phạt tù có thời hạn không?
Theo khoản 3 Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 có quy định như sau:
- Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định. Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm;
- Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù;
- Không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng.
Vì thế, không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng. Hay nói cách khác, KHÔNG áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội ít nghiêm trọng khi đáp ứng được những điều kiện sau đây:
- Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
- Do vô ý;
- Có nơi cư trú rõ ràng.
3. Phạm tội ít nghiêm trọng có được miễn trách nhiệm hình sự không?
Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng có thể được miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015. Như sau:
(1) Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
- Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
- Khi có quyết định đại xá.
(2) Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:
- Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
- Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
- Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
(3) Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Theo đó: Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng CÓ THỂ được miễn trách nhiệm hình sự nếu gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


